Trần Thúc Hà
(Nguồn: VNĐN số 38 – tháng 07
& 08 năm 2020)
Bài
viết này giới hạn từ tháng 12 năm 1979, ngày thành lập Hội Văn học Nghệ thuật Đồng
Nai cho đến nay của các nhà văn viết văn xuôi truyện ngắn và tiểu thuyết.
Trong
bối cảnh đất nước sau 30 tháng 4 thống nhất đất nước, ai cũng nghĩ rằng hòa
bình yên ổn làm ăn, hàn gắn những vết thương chiến tranh của 30 năm chống quân
xâm lược. Nhưng không phải thế. Ta hằng khao khát như thế, song kẻ thù của ta
không muốn thế. Chiến tranh lại nổ ra. Năm 1978 hàng chục sư đoàn quân Khơme đỏ
đánh thọc sâu vào biên giới Tây Nam, đốt phá làng mạc, giết hại đồng bào ta. Mạn
Bắc, 50 vạn quân Trung Quốc đánh phá 6 tỉnh biên giới vào tháng 2 năm 1979. Ở
miền Trung, Tây Nguyên với hàng ngàn tên Fulro quấy phá, lập căn cứ thành lập
“nhà nước Đề Ga”. Rồi đến bọn tàn binh của chế độ Sài Gòn luôn tìm cách phá hoại
ngầm. Tiếp nữa, đế quốc Mỹ còn cấm vận, bao vây, cô lập làm cho nước ta rơi vào
một cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài. Đất nước ta lúc bấy giờ phải chống đỡ với
nhiều loại kẻ thù, cả chiến tranh, kinh tế lẫn ngoại giao. Đồng Nai cũng nằm
trong bối cảnh chung của đất nước. Quê hương như một người mẹ đầu tắt mặt tối
suốt ngày nhưng không quên dành những lời hát ru cho con trẻ vượt qua những
ngày cơ cực ấy; không quên tạo ra những giá trị tinh thần để làm chỗ dựa cho
nhân dân xây dựng xã hội mới, vượt qua những thách thức cam go của cuộc sống. Hội
Văn học Nghệ thuật Đồng Nai được thành lập trong bối cảnh ấy, với ý thức rằng:
“Văn hóa, văn nghệ cũng là một mặt trận” (lời của Bác Hồ trong thư nhân cuộc
triển lãm của các họa sĩ đầu năm 1952 ở Việt Bắc), và xác định rằng: “Anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
Nhà văn Trần Thúc Hà trong một buổi sinh hoạt chuyên môn tại Hội VHNT Đồng Nai
Ngày
đầu mới thành lập, Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai có 63 hội viên, nhà văn Lý
Văn Sâm làm Chủ tịch Hội.
Những
ngày đầu ấy, văn xuôi Đồng Nai còn non trẻ. Cũng chỉ lơ thơ mươi hội viên viết
văn xuôi, không tính đến cố nhà văn Lý Văn Sâm và Hoàng Văn Bổn. Hai nhà văn
này có tác phẩm gây tiếng vang, có chỗ đứng trong nền văn học của cả nước trước
năm 1979. Tác phẩm văn xuôi lúc bấy giờ chưa có những tập sách nặng tay, chưa
có dấu ấn trên văn đàn Việt Nam.
Hơn
bốn mươi năm qua, đất nước đã sang trang mới như chú bé Phù Đổng vươn vai trở
thành một tráng sĩ cầm gươm xung trận. Theo đà tiến triển của đất nước, Đồng
Nai không chỉ là miền đất của cây cao su, của lúa khoai với khuôn mặt trầm lắng
suy tư mà là một tỉnh có hằng trăm xí nhiệp nhà máy, một trong những tỉnh hàng
đầu của ngành công nghiệp Việt Nam, với những gương mặt rạng rỡ “ngày mai đang
đến sáng vô cùng” (thơ Tố Hữu viết về Đồng Nai). Hội Văn học Nghệ thuật Đồng
Nai - một mặt trận văn hóa - cũng có những bước tiến lớn mạnh chưa từng có từ
trước đến giờ. Riêng đội ngũ viết văn xuôi có thể nói là thời kỳ phát triển mạnh
mẽ, liên tục cả về số lượng nhà văn, cả về về đầu sách.
Xin
được không nhắc đến hai cố nhà văn lão thành Lý Văn Sâm Hoàng Văn Bổn mà chỉ
nói đến các nhà văn kế tục sau đó của mảnh đất Đồng Nai: Nguyễn Thái Hải, Lê
Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang, Trần Thu Hằng, Nguyễn Một, Bùi Công Thuấn, Nguyễn
Trí, Thu Trân, Lê Bá Ước, Hoàng Ngọc Điệp, Bùi Công Thuấn, Trần Quốc Tiến, Nguyễn
Đình Hoàng, Huỳnh Văn Tới, Phan Đình Dũng, Bùi Quang Huy, Nguyễn Minh Chung,
Bùi Quang Tú, Dương Đức Khánh, Thu Hường, Ngô Hường, Huyền Quy, Nguyễn Duy Đồng,
Trần Thúc Hà, Kim Chi, Trâm Oanh, Đào Sỹ
Quang, Nguyễn Thị Khánh… Tất cả các nhà văn trên đều có tác phẩm được giải thưởng
văn học từ địa phương cho đến Trung ương. Người được giải thưởng của Hội Nhà
văn năm 1990 ghi dấu ấn đầu tiên cho văn chương Đồng Nai và tiếng vang trên văn
đàn cả nước, đó là Nguyễn Thái Hải với tiểu huyết “Lời nguyền hai trăm năm”, và
là nhà văn đã xuất bản hơn 50 đầu sách, một nửa là sách viết cho thiếu nhi, một
kỷ lục mà chưa có nhà văn nào ở Đồng Nai đạt được. Nhà văn Nguyễn Một, đạt giải
thưởng cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 với tiểu thuyết
“Đất trời vần vũ”. Tác phẩm thể hiện cái chết trong chiến tranh, tình yêu, sự hận
thù và tấm lòng vị tha nhân ái giữa con người với con người. Tiểu thuyết này được
tái bản, được chuyển ngữ và phát hành ở Mỹ. Nhà văn Nguyễn Trí với tập truyện
ngắn “Bãi vàng, đá quý, trầm hương” đạt giải thưởng cao nhất hàng năm của Hội
Nhà văn Việt Nam năm 2013. Lê Đăng Kháng vừa viết văn xuôi vừa sáng tác thơ. Vốn
là người lính, nhà văn Phạm Thanh Quang viết về người lính như những gì khốc liệt
đã diễn ra trên chiến trường. Huỳnh Văn Tới - Phan Đình Dũng đi sâu khai thác
“vỉa quặng” văn học dân gian cội nguồn của các dân tộc bản địa người Mạ, người
Chơ Ro… và những di tích, nền văn hóa của Đồng Nai. Nguyễn Đình Hoàng một mình
một chiếu xuất bản những tập du ký sau khi đã đi qua 30 nước trên thế giới, làm
cầu nối cho những ai muốn đi đó đi đây trên thế giới mà chưa có dịp. Trần Thu Hằng
một cõi trong tiểu thuyết lịch sử: “Đàn đáy”…
Mỗi
nhà văn là một con suối, dù có con suối quanh co khi lên thác xuống ghềnh nhưng
tất cả đều đổ về một con sông lớn. Con sông ấy chứa đựng hồn đất hồn người Đồng
Nai: “Ôi miền Đông Đồng Nai oanh liệt - đẹp sao đất đỏ anh hùng” (Nhớ về Đồng Nai của nhà thơ Tố Hữu). Ngắm
dòng sông ấy ta thấy mồn một gương mặt con người Đồng Nai trong chiến tranh bất
khuất, không ngại hy sinh cho nền độc lập của tổ quốc, trong thời bình đem hết
sức mình cho sáng tạo, lao động xây dựng ấm no và hàn gắn những nỗi đau chất độc
da cam làm con người biến dạng; của các bà mẹ mất con, mất chồng, cả bên này lẫn
bên kia; tình làng nghĩa xóm luôn đậm tình thương, chia sẻ ngọt bùi trong gian
khó, buồn vui.
Việc
ra đời tiểu thuyết lịch sử là một nhu cầu, một tiến trình của con người. Tiểu
thuyết lịch sử là hiện tượng văn học đặc biệt. Đời nay muốn nghe lại tiếng nói,
những thời khắc đau thương hào hùng của quá khứ thì lịch sử, tiểu thuyết lịch sử,
các truyền thuyết dân gian, ba thể loại này như kiềng ba chân bổ sung cho sự kiện,
làm sáng tỏ các nhân vật, cho ta như thấy được hồn cốt, hình hài của nhân vật bằng
xương bằng thịt, bằng cả khao khát yêu ghét, khoái lạc, danh vọng, vốn là đặc
điểm của con người. Một trào lưu văn học, một giai đoạn văn học mà không có những
tiểu thuyết viết về lịch sử nhất định trào lưu ấy không được phong phú. Giả thử
năm 1940, 1945 của thế kỷ XX không có tiểu thuyết Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì của
Nguyễn Huy Tưởng thì ta cảm thấy hẫng hụt như thế nào!
Lịch
sử tiểu thuyết Việt Nam có người cho rằng bộ sách Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái là cuốn tiểu thuyết lịch
sử đầu tiên của Việt Nam, thực ra, trước đó đã có Nam khai quốc chí truyện của Nguyễn Khoa Chiêm. Hoàng Lê nhất thống chí Ngô Gia Văn Phái
soạn đầu triều Nguyễn (1802), Nam khai quốc
chí truyện ra đời năm 1719. Trong thế kỷ XX, đã có rất nhiều tác giả cho ra
cả hàng chục truyện tiểu thuyết lịch sử. Đơn cử vài nhà văn gần gũi với chúng
ta: Nguyễn Huy Tưởng với Vũ Như Tô, Đêm hội
Long Trì; Nguyễn Xuân Khánh có Hồ Qúy
Ly, Mẫu Thượng ngàn; nữ nhà văn
người Pháp Yveline Féray có cuốn tiểu thuyết lịch sử Vạn Xuân dày hơn 1200 trang nói về Lê Lợi và Nguyễn Trãi; có Hội thề của Nguyễn Quang Thân…
Ở
Đồng Nai, Trần Thu Hằng có Đàn đáy.
Đàn đáy là một trong số
ít tiểu thuyết lịch sử đầu tiên của đất Đồng Nai sau khi Hội Văn học Nghệ thuật
Đồng Nai được thành lập (1979). Trong số 10 tiểu thuyết đã xuất bản của nhà văn
Trần Thu Hằng, Đàn đáy là 1 trong 20
tiểu thuyết được giải, được thư khen trong số 20 tiểu thuyết vào chung kết cuộc
thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005.
Bối
cảnh của Đàn đáy diễn ra trong thời
loạn lạc chưa từng có của Việt Nam là vua Lê - chúa Trịnh. Thời kỳ ấy đã có
hàng chục tác phẩm ra đời tưởng như đầy đủ khuôn mặt của xã hội. Vậy mà Đàn đáy ra đời. Đàn đáy không dẫm vào chân ai, nhờ cảm nhận sâu sắc, thông tỏ giai
đoạn của lịch sử, biết chọn cái khác biệt để nói lên toàn thể dựa vào năng lực
văn chương phong phú của mình. Để không xây dựng nhân vật vua quan quyền thế,
danh tài nổi tiếng làm nhân vật trung tâm của truyện, tác giả xây dựng những
nhân vật ca nương, kép đàn “xướng ca vô loài”, thứ bậc tận cùng, bị xã hội coi
rẻ, và chiếc đàn đáy - nhạc khí cổ truyền của người Việt Nam - hiển hiện lên
khuôn mặt của thập loại chúng sinh. Nhà văn khéo chọn đàn đáy làm điểm tựa cho
kép đàn, ca nương cất lên những lời ai oán xót xa cho phận người. Trong sáng
tác tiểu thuyết rất ít nhà văn dùng tiếng đàn làm một phương tiện dẫn dắt, kết
nối xuyên suốt cuốn truyện. Trong truyện
Kiều của thi hào Nguyễn Du đã trao vào tay Thúy Kiều cây đàn tỳ bà để bốn lần
Thúy Kiều ngân lên những lời khát khao yêu thương, những đớn đau tủi nhục cho
kiếp người đến độ: “Một cung gió thảm mưa sầu, bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón
tay”. Đàn đáy của Trần Thu Hằng thì
hiện diện từ đầu đến cuối trong các mối quan hệ, nêu rõ, nổi bật bản chất tốt đẹp
cũng như những dã tâm của con người; của vua quan cho đến thân phận nghèo hèn của
chúng sinh. Đó là một nét độc đáo, một thành công của Đàn đáy.
Bãi vàng, đá
quý, trầm hương
là tập truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Trí. Bãi
vàng đá quý trầm hương lạ, khác với dòng văn xuôi trong những năm đầu của
thế kỷ XXI. Hơn một nửa trong tập truyện này là những truyện ngắn đầy nước mắt,
mồ hôi, máu và những cái chết vì bệnh tật, vì tranh giành khốc liệt, vì thú dữ
trong cuộc mưu sinh, tìm cách đổi đời của những con người lao động ở chốn rừng
sâu núi hiểm. Anh hùng, hảo hán, ma cô, bụi đời, cả gái điếm đều được phơi bày
như người ta rải thóc trên sân gạch. Tất cả cuộn xoáy vào nhau lừa đảo, kể cả đổ
máu cũng chỉ vì đồng tiền. Có thể nói nơi đấy là cái vực chứa đựng tất cả mọi xấu
xa của con người làm cho ta rùng mình khiếp hãi. Nhưng không hẳn thế. Nhà văn
đã đem lòng thiện của mình thức tỉnh cũng như mong mỏi là dù cái ác đến đâu,
lương tri con người cũng còn một chút tình người. Nó được thức dậy khi cái ác
lên đến đỉnh làm cho con người ta bám vào đấy để đứng lên, để thấy ngày mai
đáng sống hơn.
Thân
phận của những người dưới đáy xã hội đã có trong tác phẩm của những nhà văn lớn:
Cơm thầy cơm cô, Làm đĩ của Vũ Trọng
Phụng; Nguyên Hồng với Bỉ vỏ; Nam Cao
có Chí phèo… Nhưng chưa ai đề cập đến
nỗi khốn khó, bạo tàn của con người hiện đại như Bãi vàng, đá quý, trầm hương của nhà văn Nguyễn Trí. Với cách viết
rất lạ, dùng ngôn ngữ Nam bộ, ngôn ngữ của
chốn anh chị, khi thì nhân vật đối
thoại với nhân vật, khi thì nhà văn đối thoại với người đọc, với nhân vật làm
cho truyện vô cùng hấp dẫn, cuốn hút người đọc. Công bằng mà nói, cách viết này
chưa thấy có ai, Nguyễn Trí là người đi đầu.
Nguyễn
Công Hoan từng nói với đại ý: nhà văn không đứng trên mà nhìn xuống, không đứng
cạnh mà quan sát, nhà văn phải hòa lẫn trong cuộc; thì nhà văn Nguyễn Trí không
những hòa trong cuộc mà là người trong cuộc, con người lăn lộn cả bao năm trời
trong chốn tìm vàng đá quý trầm hương.
Ở
chốn mưu mẹo, thủ đoạn, xảo trá kể cả đổ máu, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn”, mà chốn ấy lại là nơi hun đúc cho Nguyễn Trí một tài năng, một cảm hứng để
trở thành một nhà văn, có tác phẩm trong dòng văn xã hội hiện thực của đất nước.
Đấy cũng là một điều lạ.
Con người Nguyễn Trí là con người thép, có
trái tim đa cảm và nhân hậu. Không có trái tim đa cảm và lòng nhân hậu, hẳn
Nguyễn Trí có thể trở thành tay anh chị.
Vì đâu mà Nguyễn Trí có được như thế? Mê đọc sách từ nhỏ, mà sách là một người
thầy chỉ bày cho ta sống và phải sống như thế nào, với sự nhạy cảm, trí thông
minh cùng nỗi đau của con người và chính nỗi đau của mình đã tạo nên một nhà
văn - nhà văn có hàng triệu người đọc. Một trường hợp, một cuộc đời rất lạ.
40
văn xuôi truyện ngắn và tiểu thuyết cùng với thơ, nhạc, hội họa, nhiếp ảnh, sân
khấu đã làm nên một gương mặt sáng giá để Đồng Nai xứng đáng đóng góp vào nền
văn học của nước nhà. Và những ngày tới hy vọng sẽ có thêm những con suối nhỏ
hòa chảy vào biển lớn như Nguyễn Một, như các nghệ sĩ nhiếp ảnh đã đạt được.