Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Chào mừng kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025)
Chào mừng Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai lần thứ VII (nhiệm kỳ 2025 - 2030)
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
Một ẩn dụ hay về kiếp trầm luân, sự vượt thoát, hồi sinh trong cõi người

Luân hồi lá là tập thơ thứ 12 (kể cả thơ viết cho thiếu nhi) của thi sĩ Đàm Chu Văn. Đây có thể coi là tập thơ “lạ", lạ hơn so với 11 tập trước của anh. Lạ ngay từ tên thi tập, lạ ngay cả trong nội dung và cách thức thể hiện của từng bài thơ, hình ảnh thơ, câu chữ sử dụng trong thơ...

Luân hồi lá như bản tình ca về con người và cuộc đời trong nhiều mối quan hệ khác nhau của đời sống. Một thời đạn bom, khói lửa và những năm tháng đất nước hòa bình. Nẻo mờ. Vết đạn còn đau  Ru trang cổ tích góp màu đất đai. Đó là những vấn đề riêng - chung, những nỗi niềm trăn trở, lo âu, suy tư, chiêm nghiệm. Ở đó còn là những khát vọng kiếm tìm, giải mã bản chất của đời sống trong sự cảm thông, chia sẻ hướng về giá trị nhân ái, nhân văn nhất. Hơn ai hết, Đàm Chu Văn hiểu sâu sắc về kiếp trầm luân với niềm tin vào sức mạnh vượt thoát, hồi sinh trong cõi người.


IMG_5044_800_09052025105510.jpg 

Tập thơ Luân hồi lá của Nhà thơ Đàm Chu Văn (ảnh ĐG)


Những nơi Đàm Chu Văn đã đi qua đều để lại những cảm xúc riêng. Dường như trên dải đất cong cong như hình chữ S này đều lưu dấu những bước chân của anh, những bước chân ấy đi vào thơ như sự trải lòng. Và đằng sau mỗi diễn ngôn ấy là sự ám gợi, mở ra những chiều kích, suy ngẫm, liên tưởng đa chiều trong cuộc sống thời hiện đại. Cuộc sống mà anh đã trải qua, anh đang chứng kiến và cả những dự cảm ở thì tương lai...

Luân hồi lá với 66 bài và được chia làm 2 phần:

Phần 1: Lá trung quân (27 bài): khúc ca bi hùng viết về chiến tranh, về lịch sử, văn hóa dân tộc.

Phần 2: Như chừng xanh hơn (39 bài): khẳng định tình yêu quê hương, đất nước, con người trong cái nhìn hồn hậu, trữ tình, lãng mạn đậm chất nghiệm sinh.

Những đau thương, mất mát và tinh thần chiến đấu anh dũng, sự hiên ngang, bất khuất trước kẻ thù được Đàm Chu Văn nói đến trong phần 1 của tập thơ. Đó là nỗi niềm xót xa, lòng biết ơn với những người đã ngã xuống vì nền độc lập tự do của Tổ quốc. Vì thế, khi trở về thăm nhà tù Côn Đảo (một thời là nơi giam giữ và lưu đày tù nhân lớn nhất và khắc nghiệt nhất Đông Dương), nhà thơ bật lên những cảm xúc nghẹn ngào:

Bao người yêu nước thương nòi

 Ngực trần khí phách, đòn roi chẳng nề  

Dấn thân khắc một lời thề  

Thịt xương dù nát cho quê hương lành

 Sá chi ngời ngợi tuổi xanh  Sá chi gối ấm duyên lành đơm hoa 

 

 Đảo xanh giặc biến lao tù  

Khốc rên địa ngục, âm u oan hồn  

Quỷ người ngậm máu nhai xương  

Ngủ cùng rắn rết, thức cùng đòn roi  

Trong mơ vẫn giấc hành người  

Cho tan lý tưởng, cho vơi tâm hồn   

 

Oán hờn chất núi tày non  

Đọa đày khảo đả thân mòn chí lay  

Mạng người hạt cát rời tay  

Biển tan vào một cõi này thinh không  

Hàng dương sóng dội ngàn trùng

 Nắm xương vô chủ lẫn cùng cỏ cây...

Không thể nào nói hết, kể hết công lao và sự đóng góp máu xương của bao thế hệ con người Việt Nam vì nền độc lập của nước nhà. Họ đã trở thành biểu tượng đẹp mang đầy đủ hình dáng, tâm hồn cốt cách Việt Nam: cùng chung một lý tưởng, một mục đích, sống và chết vì nền độc lập tự do của dân tộc.

Hơn bốn mươi năm sau chiến tranh anh lại vào rừng tìm lá trung quân  

những lớp lá đã ngủ yên trong mùa xưa cũ?  

trung quân  

sắc lá bền gan  

ai đặt tên cho lá giữa ngợp xanh đại ngàn  

 

cây nghiêng lá  

nghiêng màu sức trẻ  

ngàn sông suối  

ầm ào, dồ dạt  

đền nợ nước

 tiếc chi đời trai!  

trùng trùng trung quân kết nên mái nhà  

kháng chiến  

gánh nước non dồn vào lá vào cây

bom rải thảm, thuốc khai quang, pháo bầy  

giặc trút lên sắc lá  

 

mùa đi  

những mắt lá thức đợi  

mặc nhiên xanh

(Lá trung quân).

Chiếc lá trung quân đã trở thành biểu tượng đẹp, kiên trung, bền bỉ, bất tử với thời gian...

Trong thơ đương đại luôn chứa đựng những gam màu trái ngược: sự sống - cái chết, vui - buồn, thiện - ác, được - mất, có - không, vinh quang - nhục nhã, quyền uy - bỏ cuộc... Ở đó nhà thơ giãi bày những suy tư, chiêm cảm về cuộc sống, tình yêu trong một cái nhìn biện chứng. Không gian, thời gian của các sự kiện lịch sử dân tộc, các trầm tích văn hóa được khám phá, được chuyển tải từ chính hiện thực mà thi nhân chứng kiến, nghe thấy và cả sự tái tạo xâu chuỗi từ ký ức:

Trăng ơi trăng, ngày mai sẽ vẹn lành  

Vầng trăng sáng đoàn viên hẹn ước  

Hai mốt năm trời giới tuyến cản ngăn  

Cắt xẻ lứa đôi, tan nhà nát cửa  

Trăng sẻ nửa, những mái nhà sẻ nửa  

Những phố phường, cánh đồng, dòng sông, cánh rừng... sẻ nửa  

Máu tuôn xối vết thương chia cắt...

(Đêm tháng Tư năm 1975 và những cây cầu).

Không gian của thời quá vãng bi hùng gợi nhắc cho những người còn sống hôm nay về một thời kỳ lịch sử đã qua trong niềm khắc khoải, day dứt.

Lời thề của Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn bên Bến Tượng: “Nếu không thắng trận này  ta quyết không về bến sông này nữa". Lời thề ấy đã tạo xúc cảm cho Đàm Chu Văn, anh viết ngay bài thơ Lời thề bên Bến Tượng.

Đàm Chu Văn đã đi qua những năm tháng của đời lính, nên hiểu rõ sự tàn khốc của nó. Những anh hùng đã hy sinh, những địa danh nổi tiếng, những địa chỉ văn hóa, những chứng tích còn ghi dấu của cuộc chiến đã qua... hầu như khi đặt chân đến anh đều rưng rưng biết bao cảm xúc: Thăm Đền Hùng ngày xuân, đến Chùa Một mái, về thăm Côn Đảo, Cà Mau, bên cầu Mường Thanh, ghềnh Bến Cự, trên sông La Ngà, đêm tháng Tư năm 1975 của những cây cầu, bên gốc dầu cổ thụ trong di tích chiến khu Đ,  những mảnh làng trên sông La Ngà 1978... Truyền thống yêu nước, tinh thần cách mạng của quân và dân ta thật đáng tự hào. Hình ảnh “em" - cô gái giao liên thông minh, nhanh nhẹn;  Già làng Năm Nổi, linh hồn của làng Chơ Ro Phú Lý hay người họa sĩ tài danh Tô Ngọc Vân đã ngã xuống trong trận bom thù và máu ông đẫm bức tranh chưa kịp vẽ... (Bức tranh Bên đèo Lũng Lô là tác phẩm cuối cùng về chiến thắng Điện Biên Phủ của Tô Ngọc Vân để lại trước khi hi sinh).

Đó còn là lời cảm tạ trước cha ông, tiên tổ, niềm tin tưởng vào tương lai về một đất nước đẹp giàu...

Nhà thơ Đàm Chu Văn có một đời sống tinh thần phong phú, luôn vận động, đặt mình vào trong dòng chảy cuộc đời để lắng nghe, cảm nhận, suy ngẫm về thực tại và cả quá khứ đã lùi xa. Thi nhân vẫn lặng lẽ, vẫn mải miết đi tìm câu trả lời cho chính bản thân mình và cho cuộc đời.

Bên cạnh niềm thành kính thiêng liêng, đức tin, sự tri ân sâu sắc với những con người của lịch sử, của quá khứ; trong thơ của Đàm Chu Văn còn chứa đựng cả những bi kịch:

Hàng dương xanh xõa tóc rối bời buổi sớm chúng đem bắn Chị  

Biển vẫn xanh dồ dạt ầm ào như thể thản nhiên  

mà không thể thản nhiên  

Trắng hay đen màu tang trở, ở đây chỉ có

 hàng hàng dương xanh làm chứng  

Chúng giết xanh tươi, bắn vào công lý, hòa bình!

Chị có cài hoa Lê ki ma lên mái tóc xanh tuổi mười chín hay không, Côn Đảo có hoa Lê ki ma hay không, điều ấy không quan trọng

 Chỉ biết đọng lại trong lòng những người lính có lương tri hôm ấy là dáng vẻ bình thản, yêu tin  

Chị ngước về phía mặt trời, đón làn gió biển  

Những bàn tay âu yếm cuối cùng

 ve vuốt mặt người thân  

Mặt trời dậy vội vàng rướm lửa  

Khi ánh sáng bừng lên thì Chị đã đi rồi  

Chín phát súng kẻ thù thay lời chào tiễn biệt  

Người Anh hùng gửi lại Tuổi đôi mươi

(Ngày chị Sáu hi sinh).

Những bài thơ như điệp khúc nhạc buồn về thời cuộc, nhất là nỗi khổ đau, sự hi sinh mất mát của nhân dân. Có người sau 50 năm vẫn chưa tìm được hài cốt, liệt sĩ Chu Công Hoan - người cậu của chính tác giả là một ví dụ. Để rồi nhà thơ  người cháu phải thốt lên trong lời đẫm đầy nước mắt:

Năm mươi năm rồi cậu vẫn ở nơi đâu?  

Nền đất lạnh, lá rừng đắp tạm  

Ngôi mộ gió ở quê cậu có ghé về?  

Có thể có người đã lãng quên  

Lớp con cháu sinh sau chỉ thấy di ảnh trên bàn thờ  

Thời của cậu vì nghĩa lớn xông pha  còn trong sử sách

(Nhớ cậu).

Người thương binh trở về sau cuộc chiến cùng với vết thương chiến tranh là những nỗi đau dai dẳng, khôn cùng:

Đôi màng nhĩ thủng toang  

không một âm thanh nào của cuộc sống  

thường ngày lọt vào tai anh nữa

 

... bốn mươi năm qua anh chỉ nghe bằng ký ức  

ký ức tuổi thơ nghèo khó  

tình làng quê trong trẻo, đời chiến sĩ gian lao...

(Về một người thương binh).

Những suy tư, trăn trở về đời, về người, về hiện thực của cuộc chiến tranh và cuộc sống thời đại được mở rộng biên độ khám phá, khai thác và phản ánh. Lời thơ khảng khái, tự tin, chân thành thể hiện rõ cốt cách, phẩm hạnh của một thi sĩ, công dân chân chính, đầy trách nhiệm. Với cái nhìn tinh tế, mẫn cảm trên tinh thần dân chủ, khách quan. Trong bài thơ văn xuôi Biên giới phía Tây Nam có đoạn:

Biên giới

Bóng tối phả vào những cái đầu quỉ dữ. Máu xối từ ánh nhìn man rợ. Đập đầu người tiếng cuốc dọn sạch chính mình, xóa trắng chính mình. Lưỡi dao găm cắm ngập sườn, cắm ngập họng ân nhân. Cố vấn mỉm cười. Lương tri ngơ ngác.

Biên giới

Màu sen không đổi khác. Hào hiệp nghĩa tình, xương máu hiến dâng đã chưng cất tượng đài. Vị mướp đắng, sầu đâu thêm một lần hòa quyện. Nhớ hay quên, lặng lẽ một dòng xuôi".

Việc ưu tiên chọn thể thơ tự do, những bài thơ dài ngắn khác nhau, những bài thơ văn xuôi dài... phù hợp với việc tự thoại, tự vấn, đối thoại, độc thoại với chính mình, hàm chứa những tầng ý nghĩa sâu xa:

Dàn nhạc mùa đông buông những giọt thanh âm cuối cùng khúc hoan ca phì nhiêu và lầm lụi ba zan  

thiếp ngủ mê mải lá  

rừng soi gương mặt lạ  

ru tròn giấc cây

đi hết chiều đêm

đi hết chiều ngày

 rỉ rả bài ca côn trùng, cóng lạnh  

veo trong, long lanh bình minh ngũ sắc điệu đàng  

thậm thịch, rì rầm  

lanh canh, lanh canh, xủng xoảng dao thùng  

bài ca mặc nhiên không cần giai điệu

 rứt ruột, trắng tươi ròng ròng dâng hiến,  

rùng mình lá khẽ khàng cây  

bợt vai áo xanh đẫm ngày  

thức dậy nào reo xuân!  

he hé tươi non luân hồi mắt lá (Luân hồi lá).

Bên cạnh những bài thơ viết về chiến tranh và những gì liên quan đến chiến tranh, Đàm Chu Văn cũng dành những vần thơ viết về tình yêu, khẳng định tình yêu quê hương, đất nước, con người trong cái nhìn hồn hậu, trữ tình, lãng mạn đậm chất nghiệm sinh. Viết về những nơi anh qua: Cầu Long Biên; Núi Oản, núi Xôi; Núi Nhạn; Đất quê Quan họ; Hang Đầu Gỗ; Tà Lài; Suối Tre, Long Khánh; Chợ tình Sapa; Đà Lạt; Chùa Tháp... Hay viết về chính quê nhà của mình, viết cho mẹ, cho em... đều thân thương, ấm áp, thứ tình yêu sáng trong, bình dị đáng yêu đến vô cùng. Chủ thể trữ tình nhớ đến cây thị của bà, tết lại nhớ mẹ, nhớ giọng quê... rồi lại nhớ “em", màu áo của em, nhớ cả những dòng tin nhắn... Từ những dòng tin nhắn qua lời tâm sự của một bạn trẻ lại đặt ra biết bao nhiêu câu hỏi cho cuộc sống phức hợp, đa diện, đa chiều hôm nay:

Những dòng nhắn tin bực bội  

Những dòng nhắn tin buồn rầu  

Những dòng nhắn tin thảng thốt  

Những dòng nhắn tin quán tính  

Những dòng nhắn tin nhu cầu  

Những dòng nhắn tin tội đồ  

Những dòng nhắn tin nợ nần

 Những dòng nhắn tin bấu víu  

Những dòng nhắn tin làm nhẹ mình hơn  

Những dòng nhắn tin mong mỏi đợi chờ  

khủng khiếp  

Những dòng nhắn tin chẳng để làm gì  

Những dòng nhắn tin lang thang  

như người trai thất tình  

Những dòng nhắn tin chập chờn mê ngủ  

Những dòng nhắn tin ...

Luân hồi lá, Đàm Chu Văn luôn hướng về giá trị truyền thống quý báu của lịch sử cha ông, của quê hương, nguồn cội, với bạn bè, đồng đội, người thân... bằng tấm lòng trân trọng và biết ơn sâu sắc. Anh đã ký thác được nhiều cung bậc, sắc màu khác nhau của đời sống, khám phá những miền sâu thẳm trong tâm hồn người. Vì thế, những vần thơ trong trong tập này có sức lay động đến với bạn đọc. Tuy nhiên, để hiểu, để cảm và nhận ra được cái hay, cái độc đáo, sâu sắc trong thơ Đàm Chu Văn nói chung và tập thơ này nói riêng không phải là điều đơn giản. Do vậy, Luân hồi lá sẽ rất kén độc giả. .​


Nguyễn Văn Hòa
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​