Thứ 6 - 26/02/2016
Màu đỏ Màu xanh nước biển Màu vàng Màu xanh lá cây
Chào mừng Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai lần thứ VII (nhiệm kỳ 2025 - 20230
“Rực rỡ sắc mai vàng, mừng Đảng, mừng Xuân, mừng Đất nước vươn cao tầm đổi mới; Thắm tươi màu cờ đỏ, chúc Đoàn, chúc Hội, chúc Đồng Nai nỗ lực để thành công" (Dương Thanh)
NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ LÊ ĐĂNG KHÁNG


 Bia - mung tuoi dong song.jpg

Nhà thơ Lê Đăng Kháng sinh năm 1947, quê Hà Nam. Ông là hội viên Hội VHNT Đồng Nai (1981), hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2002).

Thế hệ vàng - nhà văn bước ra từ chiến trường

Ông từng là người lính chống Mỹ từ năm 1966. Đất nước hòa bình thống nhất, ông đi học và tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP.HCM (1980), sau đó ông làm biên tập viên Nhà xuất bản Đồng Nai.

Nhà thơ Lê Đăng Kháng đã in 10 tác phẩm, gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ và trường ca: Vầng trăng nơi thiên đường (tiểu thuyết - 1991), Kẻ đánh thuế đời mình (tập truyện ngắn - 1997), Đến hẹn (thơ - 2004), Sương sớm (Tập truyện ngắn - 2006), Tiếng chim mắc nợ (thơ - 2006), Hoa cúc ổi (tiểu thuyết - 2011), Quả ngọt (thơ và trường ca - 2013), Thiếu phụ cùng băng ghế (tập truyện ngắn - 2016), Vùng sáng trước mặt (tập truyện ngắn - 2022), Mừng tuổi dòng sông (thơ - 2024). Ông cũng đạt nhiều giải thưởng văn học, chẳng hạn: Giải II Hội Nhà văn và Bộ Lâm nghiệp năm 1981, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Trịnh Hoài Đức lần II & IV, giải thơ hay VNĐN năm 1991…

Hành trình đời ông là hành trình của một thế hệ thanh niên sống lý tưởng cao đẹp, trực tiếp tham gia và đóng góp tuổi trẻ của mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Ông trưởng thành và viết văn trong bối cảnh: kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước hòa bình, thống nhất; Đảng tiến hành “đổi mới" mở ra thời đại mới: thời đại công nghiệp hóa, hội nhập toàn cầu hóa.

 Bản thân ông là một điển hình cho nỗ lực phấn đấu rèn luyện không ngừng. Rời chiến trường, ông lại lao vào học tập và làm việc. Tất cả những trải nghiệm ấy, bối cảnh ấy đã hun đúc lên cảm hứng sáng tạo ở cả thơ và văn của ông. Vốn sống, tư tưởng, tình cảm của ông trở thành nội dung, ánh lên vẻ đẹp và kết tinh thành những giá trị thơ, văn của ông - thơ văn của người lính, hào hùng nhưng rất mực chân thực, mộc mạc, và giàu cảm xúc. Hạt nhân của vẻ đẹp thơ, văn ông là tình người, tình yêu thương với quê hương, đất nước, đồng đội, gia đình và tính yêu thời đại của mình. Viết về tập truyện Sương sớm của ông, tôi nhận ra tập truyện thể hiện “triết lý của người hiền"(1). Lê Đăng Kháng thuộc thế hệ “vàng mười" của văn học Đồng Nai.

Sở dĩ ông có nhiều thành tựu trong sáng tác là do ông trăn trở rất nhiều về việc viết. Ông viết rất cẩn trọng, công phu, với ý thức sâu sắc của một người lính, và với trách nhiệm, lương tâm của người cầm bút (khác với nhà văn thị trường, viết  theo yêu cầu thị hiếu của người đọc). Ông thường chia sẻ với tôi một bài thơ mới làm. Đọc thơ ông (tôi tự nghĩ mình là bạn thân), và dưới góc độ của người đọc, tôi chân thành trình bày cảm nhận riêng của mình về bài thơ. Có khi nhận xét của tôi về một từ đã làm ông vất vả nhiều ngày để tìm từ thay thế. Đặt từ mới vào bài thơ, thấy chưa ổn, ông lại trăn trở tìm từ khác. Bài Bình Liêu là kết tinh tài năng, tâm huyết và công phu trăn trở như thế của ông.

“Mừng tuổi dòng sông"

Tập thơ Mừng tuổi dòng sông có 34 bài, chứa đựng nhiều tín hiệu mới lạ trong thơ Lê Đăng Kháng.

Lê Đăng Kháng làm thơ ở nhiều nơi: Đồng Nai (Mã Đà: 2015, 2019; Đắc Lua 2017, Tân Phú 2017, Biên Hòa 2018), Trại sáng tác Vũng Tàu (2018; 2019), Hà Nam (2021), Hà Nội (2022), Quảng Ninh (2022), Đồng Đăng (2023), Mường Phăng (2024); Cà Mau (2023), Đồi A1, Điện Biên Phủ (2024)… Như vậy, cảm hứng sáng tác về quê hương đất nước của ông trải rộng từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Tình yêu quê hương không chỉ dành riêng cho Hà Nam hay Đồng Nai (Mảnh trăng xưa) mà mở rộng đến vùng sâu vùng xa (Đắc Lua), đến vùng đất lịch sử (Đồi A1, Điện Biên Phủ - Trong căn hầm De Cas), vùng đất văn hóa (Hà Nội, Đồng Đăng - Con tàu dạo ấy, Cỏ xanh), đến tận địa đầu đất nước (Cà Mau - Bài hát nơi đất Mũi). Điều này cũng là đặc điểm thơ Đồng Nai. Các nhà thơ sinh ra,  lớn lên ở nhiều địa phương trong nước, đã đi qua nhiều vùng quê hương và quy tụ về Đồng Nai, vì thế, tình quê hương trong thơ Đồng Nai mở rộng thành tình yêu đất nước, với sắc màu rất phong phú. Thơ Lê Đăng Kháng góp vào sự phong phú ấy.

Điều mới mẻ khác trong thơ Lê Đăng Kháng là sự hòa trộn cảm xúc, nghĩ suy về quá khứ với thực tại hôm nay. Hình như ông nghĩ ngợi rất nhiều suốt mấy chục năm qua về thế hệ của ông. Ánh sáng tư tưởng hòa hợp hòa giải dân tộc và tình yêu thương dạt dào của trái tim ngưới lính, cùng với những trải nghiệm tử sinh của ông đã kết tinh thành những giá trị quý báu trong thơ ông. Tâm hồn sáng trong nhưng trĩu nặng bao nỗi niềm. Xin đọc:

Tàu giờ tôi ngồi khoang mềm lạnh

Các cháu nhân viên khẽ mỉm cười

Tuổi họ khéo bằng tôi dạo ấy

Đi qua cuộc chiến chục năm trời

 

Dạo ấy tôi ngồi khoang tàu chật

Nghe người hát dạo gẩy ghi ta

Nửa khoang dạo ấy là ngô, sắn

Mà người hát dạo vẫn len qua

 

Có thể họ là thương phế binh

Người của bên kia vì mưu sinh

Đã hát trên con tàu Thống Nhất

Bằng những bài ca yêu nước mình…"

  (Con tàu dạo ấy)

Điều thú vị là về nghệ thuật thơ, Lê Đăng Kháng đã vượt lên. Khởi đi từ làm thơ truyền thống, Lê Đăng Kháng làm thơ tự do giàu tính tư tưởng. Thể thơ này đang là dòng chính của thơ Việt hôm nay. Lê Đăng Kháng có những bài thơ tự do rất mới lạ. Mới lạ trong việc chọn lựa chất liệu hiện thực, mới lạ trong cái nhìn và suy ngẫm về cuộc sống đầy biến động và phức tạp, mới lạ trong cách quan sát, khám phá và thể hiện, nhưng vẫn giữ những đặc điểm phong cách thơ của ông.

Xin đọc bài Tĩnh vật:

Bắt đầu từ chiếc mâm nhôm

không thể mỏng hơn sự phế thải

với mức giá vừa túi tiền công nhân

trong hạnh phúc mua sắm

ngày nghỉ ca cuối tuần

Lát cà chua như điểm nhấn

nét hoa văn trong đĩa cá nục

sang tay ba bốn giá

mấy lần ướp đá

sớm chiều bán ven chợ công nhân

và đĩa rau muống thật xanh

được luộc chín nhờ ngọn lửa ga công nghiệp

Mùi cơm chín lấn át

gợi nhớ đường làng rạ rơm

vợ chồng người công nhân giật mình

nhớ mùi bùn non vụ gặt

 

Bỗng thằng bé cầm đũa gõ vào mâm

gõ vào đĩa cá

bắt đầu một trật tự khác

nó hát những lời đầu tiên của tư duy

nó vẫn gõ vào mâm như đệm nhạc

vợ chồng người công nhân nhìn nhau

bài hát hay đứa bé

là ước mơ của họ

có thể mãi sau này

thằng bé hiểu thế nào là tư duy

là ước mơ

từ bức tranh tĩnh vật

(Tĩnh vật - Lê Đăng Kháng)

Nhà thơ vừa quan sát, vừa kể chuyện, vừa suy ngẫm. Hình ảnh đời thường, cuộc sống khốn khó của một gia đình công nhân bỗng tỏa ra ánh sáng tư tưởng. Lời thơ, câu chữ, vần, nhạc rất mộc mạc, tự nhiên, như lời nói chuyện, lời cảm thông đầy nghĩa tình. Lê Đăng Kháng không dụng công làm thơ, không tu từ, không óng chuốt cầu kỳ thi tứ… nhưng xin lưu ý, ngôn ngữ thơ Lê Đăng Kháng rất chắt lọc, chứa nhiều năng lượng cảm xúc, đào xới nhiều vỉa tầng hiện thực. Nhưng cái lạ là ở chỗ: đời sống nghèo khó xót xa của người công nhân sao đậm chất thơ đến thế! “Cái nghèo" của người công nhân hôm nay khác với “Cái nghèo" ngày xưa: “Áo anh rách vai/ quần tôi có vài mảnh vá" (Đồng chí - Chính Hữu). “Bầm ra ruộng cấy bầm run/ Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non" (Bầm ơi - Tố Hữu). Gia đình người công nhân có cơm ăn, mâm cơm có đĩa cá nục, đĩa rau xanh, điểm tô thêm màu sắc miếng cà chua, no ấm, sang hơn “ngày xưa" nhiều. Vậy mà đọc bài thơ, trái tim người đọc như bị xát muối! Bởi nhìn vào tình cảnh gia đình công nhân này, người đọc liên tưởng ngay đến những biệt phủ, những nhà lầu xe hơi, đồng hồ triệu đô; đến những vụ hối lộ ngàn tỷ, đến những đại án triệu tỷ đồng. Chênh lệch giàu nghèo trong xã hội hôm nay không sao tưởng tượng nổi. Đó là “một trật tự khác". Một trật tự không thay đổi, như bức “tranh tĩnh vật" nằm chết trên tường, có chăng “là ước mơ"!

 Bây giờ xin đọc Tĩnh vật của Thanh Tâm Tuyền, một bài thơ miêu tả hiện thực miền Nam những năm 1960. Nỗi khốn cùng, nghèo đói, máu và nước mắt. Nhà thơ cất lên tiếng nói đầy phẫn nộ:

“Mẩu bánh mì ở góc bàn

Và cốc nước trong như mắt đẹp

Thôi

để giấc mơ lên cỏ hoa

Hiện hình nỗi chết

Từ ngón tay

Hết cả niềm hồn hậu

Người đau bằng màu bằng âm thanh

Những ngày nghèo đói

Ăn mày

Cố sức

tiếng cười trên cổ nõn

Tóc mai

 

Phố nhỏ lên chiều 

mãi nhớ thương

Người nhổ muôn ngàn giấc máu ra khỏi ngực

Là tĩnh vật

Kẻ đi ngoài kia la vào mồm

Sống".

(Tĩnh vật - Thanh Tâm Tuyền - Sáng Tạo, số Xuân 1957)

Hai bài thơ bên cạnh nhau bộc lộ sự tương phản về tư tưởng, nghệ thuật và thái độ diễn ngôn. Cùng là thơ tự do, miêu tả hiện thực, một hiện thực không thay đổi, như tranh tĩnh vật nhưng Thanh Tâm Tuyền đầy phẫn nộ trước hiện thực miền Nam đói nghèo, nỗi chết bao trùm, con người quyết liệt đòi quyền sống, còn Lê Đăng Kháng lại chia sẻ cảm thông với gia đình công nhân nghèo, nhưng hy vọng vào một trật tự khác:

Bỗng thằng bé cầm đũa gõ vào mâm

gõ vào đĩa cá

bắt đầu một trật tự khác

nó hát những lời đầu tiên của tư duy

nó vẫn gõ vào mâm như đệm nhạc

Động từ “gõ" được lặp lại nhiều lần có ý nghĩa làm thức tỉnh: “vợ chồng người công nhân nhìn nhau". Và họ “ước mơ".

Sự so sánh nào cũng khập khiễng, tôi chỉ muốn nói sự mới lạ của thơ Lê Đăng Kháng. Bởi thơ Thanh Tâm Tuyền viết bằng kỹ thuật “dòng ý thức", là tiếng nói phản kháng thể hiện tư tưởng Hiện sinh. Trái lại, thơ Lê Đăng Kháng là thơ hiện thực, là tiếng nói sẻ chia, viết bằng tấm lòng nhân ái.

Bài Bình Liêu là một vẻ đẹp khác của thơ Lê Đăng Kháng:

Bình Liêu mây trắng lưng đồi

Vén mây tìm lối lên trời là đây

Dịu dàng lất phất mưa bay

Vui sao tiếng ếch kêu ngay sau nhà

Gà rừng eo óc gần xa

Ruộng bậc thang cứ mượt mà lúa xanh

Ngỡ ngàng ngàn dặm Quảng Ninh

Chưa bao giờ dám nghĩ mình đặt chân

Giữa hè sao ngỡ mùa xuân

Hoa sim nở tím lòng ngần ngại xa

Mặt trời trắng giữa bao la

Cọn quay chầm chậm thác òa òa reo

Bâng khuâng trời nước Bình Liêu

Bản làng san sát giậu leo tơ hồng

Bước đi một bước lại ngừng

Quê hương trù phú một vùng biên cương

Đi hay ở lại với rừng

Rượu ngô đã ngấm say trong lưng chiều

Lượn sli ai gọi người yêu

Chân đồi từng tốp đã xiêu xiêu lòng

Chiều buông hoa dẻ thơm lừng

Lòng như dợn sóng trùng trùng lúa xanh

                   (Bình Liêu - 2022)

Bài thơ tổng hợp được nhiều vẻ đẹp. Cảnh Bình Liêu đẹp, tình người Bình Liêu say. Thơ Lục bát vừa trang nhã vừa dân gian. Ngòi bút miêu tả sắc nét. Tầm nhìn, sự quan sát rất tinh tế. Người đọc có thể nghe rõ tiếng ếch, tiếng gà, tiếng gọi người yêu và tiếng lòng của nhà thơ. Bóng dáng nhà thơ hiện lên vừa lãng mạn vừa tài hoa.

“Lời ngỏ" của nhà thơ Lê Đăng Kháng

Trong “Lời ngỏ" tập thơ, ông viết:

“Hiện thực cuộc sống như dòng sông không ngừng chảy về phía trước. Dòng sông luôn bồi đắp cho sự tốt tươi của đôi bờ.

Nhà thơ chọn lấy đôi bờ tươi tốt ấy như đón nhận cuộc sống với sự biết ơn chân thành…

  Mừng tuổi dòng sông là tiếng nói biết ơn cuộc sống, và mừng cho những thành tựu chinh phục bản thân của nhà thơ"

Tôi thích “Lời ngỏ" tập thơ của Lê Đăng Kháng, bởi vì, những lời mộc mạc chân thành ấy chứa đựng tư tưởng nghệ thuật của thơ ông; nó giúp người đọc nhận ra sự mới lạ mà ông khám phá được, nó đánh dấu “độ chín" câu chữ ông viết, nó vang lên nhịp đập trái tim ông trước hiện thực, và toả sáng khuôn mặt thi ca của ông. Điều rất quý của thơ Lê Đăng Kháng là sự đóng góp làm phong phú thơ Đồng Nai, và làm đậm thêm những sắc màu tươi đẹp của thơ Việt hôm nay.

B.C.T

​(Đọc tập thơ “Mừng tuổi dòng sông" của Lê Đăng Kháng, NXB Hội Nhà văn 2024)

 


 

_________________

(1): Bùi Công Thuấn - Khúc gieo trồng ban mai-Đọc tập thơ Quả ngọt của Lê Đăng Kháng

http://buicongthuan.vn102.space/?title=th_le_ng_khang_qu_ng_t&more=1&c=1&tb=1&pb=1

Bùi Công Thuấn - Triết lý người hiền - Đọc Sương Sớm của Lê Đăng Kháng

Nguồn: Bùi Công Thuấn - Nhà văn Đồng Nai, NXB Hội Nhà văn 2018.

Nguồn: Văn nghệ Đồng Nai số 83-84 (Tháng 01 & 02 năm 2025)


BÙI CÔNG THUẤN
Object reference not set to an instance of an object.

Liên kết webiste

Thăm dò ý kiến

Đánh giá về trang thông tin điện tử Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai

 

Số lượt truy cập

Trong ngày:
Tất cả:

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI
Địa chỉ: 30 Đường Nguyễn Ái Quốc, P.Tân Tiến, Thành phố Biên Hoà, Đồng Nai
Điện thoại : 02513.822.992; Email: hvhnt@dongnai.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NSND. Đạo diễn Giang Mạnh Hà – Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai.
Trưởng Ban biên tập: Trần Thu Hằng​​