Bến văn và những vòng sóng là tập Tiểu luận và
Phê bình của nhà thơ Hữu Thỉnh in quý I năm 2020. Cuốn sách có thể giúp người
đọc nhận ra nhiều mặt tài năng của ông, đồng thời có thể lý giải do đâu ông được
rất nhiều người yêu mến.
NHỮNG VẤN ĐỀ VĂN HỌC
Phần
thứ nhất của cuốn sách tập hợp các bài “diễn
văn”, Chủ tịch Hữu Thỉnh “phát biểu”
trước một cử tọa chọn lọc trong các hội nghị. Đó là các bài:
Tổng kết hội thảo 2014: “Xây dựng con người Việt Nam hôm nay và trách nhiệm của Văn học Nghệ thuật”;
Đề dẫn Hội nghị Lý luận Phê bình lần II,
Đồ Sơn 3,4,5/10/2006; Khai mạc Hội nghị
Viết văn trẻ lần VIII. 2011; Diễn
văn kỷ niệm 60 năm xây dựng và phát
triển Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2017); Diễn văn khai mạc Hội nghị đại
biểu những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ IX. 2015; Báo cáo tổng kết Công tác văn học 5 năm (2000-2004); Phát biểu tổng kết hội thảo “Bồi
dưỡng chăm sóc tài năng văn học nghệ thuật trong tình hình mới”. 2012; Tham luận tại cuộc hội thảo giao lưu
văn hóa tại Đà Loan; Diễn văn khai mạc
Liên hoan
Thơ chấu Á-Thái Bình Dương lần thứ nhất 2-7/2/2012 tại Quảng Ninh
–Hà Nội; Diễn văn khai mạc Hội nghị Quảng bá Văn học Việt Nam lần thứ
III tại Hà Nội từ 2-7/3/2015…Phát biểu tại hội thảo thơ Mai Văn Phấn-Đồng Đức Bốn: Khác biệt và thành công, tổ chức tại Hải Phòng ngày 15/512017…

Bìa sách "Bến văn và những vòng sóng" (Nhà thơ Hữu Thỉnh)
Trong
những hội nghị, diễn văn của nhà thơ
Hữu Thỉnh (Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) có sức hấp dẫn đặc biệt, bởi ông vừa
là nhà thơ, vừa ở cương vị lãnh đạo Hội Nhà văn (một Hội có tiếng xưa nay). Người ta chờ được nghe những
thông tin mới, những điều riêng tư mà thông tin báo chí không có. Hơn nữa sức
thuyết phục của những “phát biểu” này còn toát ra từ giọng điệu và thái độ diễn
ngôn của tác giả. Ông khai thác triệt để thế mạnh của ngôn ngữ nói, lời văn của
ông giàu hình ảnh, cảm xúc; ông nắm được tâm lý của người nghe và đáp ứng những
mong muốn ở họ. Ông đem đến niềm vui, niềm hy vọng, và trên hết là sự thân thiện,
là bạn hữu nhưng người có hoài bão lớn.
Đọc
văn bản in giấy (chữ - ký hiệu thị giác),
những “diễn văn” của nhà thơ Hữu Thỉnh chỉ còn sức thuyết phục ở nghệ thuật lập
luận và nghệ thuật biểu đạt tư tưởng tình cảm.
Bỏ qua
những yếu tố có tính xã giao, những “diễn văn” này chứa đựng nhiều vấn để văn học
nghệ thuật mà nhà thơ Hữu Thỉnh với tư cách Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam quan
tâm. Những vấn đề này ông có cách lý giải thuyết phục.
1.Trước hết, nhà thơ Hữu Thỉnh là một đảng
viên. Ở cương vị lãnh đạo, ông có nhiệm vụ trực tiếp triển khai nội dung các Nghị quyết về văn hóa, văn nghệ
của Đảng.
Tổng kết
hội thảo 2014: “Xây dựng con người Việt Nam hôm
nay và trách nhiệm của VHNT”, ông nhấn mạnh: “Cuộc hội thảo của chúng ta hôm nay là bước khởi động…triển khai Nghị quyết 33 của Hội nghị Trung ương lần thứ 9, khóa XI ‘Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước’”.
Đề dẫn
Hội nghị LLPB lần II, Đồ Sơn
3,4,5/10/2006, ông nói rõ mục đích: “Hội
nghị lần này là hoạt động mở đầu cho chương trình hành động của toàn giới nhà
văn nhằm đưa Nghị quyết Đại hội X của Đảng
vào đời sống văn học” (tr.17).
Ông nhấn
mạnh đoạn Nghị quyết này: “Phát huy tiềm
năng, khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật, tạo ra những giá trị cao về tư
tưởng và nghệ thuật…Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hóa,
văn học, nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ.
Có chính sách trọng dụng các tài năng văn hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần của văn nghệ sĩ. Đẩy mạnh hoạt động lý luận phê bình văn học, nghệ thuật.”(tr.21).
Trong
bài Văn học với nhiệm vụ đưa văn hóa thấm
sâu vào đời sống (tr.38), ông cũng xác định rõ nhiệm vụ: ”làm chuyển biến nhận thức, quan điểm và tìm
các biện pháp khả thi nhầm phát triển văn học nghệ thuật trong tình hình mới
theo Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị
khóa X…” (tr.43)
Trong phát biểu tại Cuộc gặp mặt lần thứ nhất: Nhà văn với sứ mệnh đại đoàn kết dân tộc (tr.444), Chủ tịch Hữu Thỉnh đã triển khai sâu
sắc và thuyết phục Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt
Nam ở nước ngoài. Ông làm rõ truyền thống đoàn kết dân tộc. Ông nhân mạnh nhiệm
vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo quan điểm của Đảng:”Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc mở rộng cánh cửa đón nhận mọi tài
năng văn học từ mọi chân trời”
(tr.446);”đời
sống văn học của cộng đồng người Việt ở nước ngoài là một bộ phận khăng khít
của văn học nước nhà (tr.445); Chúng ta xin gửi
thông điệp khẩn thiết này đến tất cả các nhà văn Việt Nam, với tư cách là người
cầm bút của ngày hôm nay, bây giờ, ở bất cứ đâu, không kể đến xuất xứ và quá
khứ của họ. Trước sứ mệnh của tổ quốc, mọi người đều bình đẳng về trách nhiệm
và nghĩa vụ (tr.447).
Nhưng
ông cũng xác định rõ những giới hạn:
“Chúng ta tôn trọng mọi khác biệt…bNhưng
tuyệt đối hóa sự khác biệt thì cuộc sống không còn là cuộc sống.(tr.450); ”viết về chiến tranh
cũng cần có cái nhìn đổi mới… nhưng đổi mới thế nào cũng không thể làm biến
dạng bản chất chính nghĩa, tầm cao vĩ đại, và phẩm giá anh hùng của nhân dân ta” (tr.447).
Cuộc gặp mặt lần thứ nhất: Nhà văn với sứ mệnh đại đoàn kết dân tộc được tổ chức thành công dù
vẫn còn nhiều vấn đề cần thời gian để thu ngắn sự khác biệt. Ở sự kiện này, Chủ
tịch Hữu Thỉnh tỏ rõ một bản lĩnh chính trị vững vàng, tài thu phục nhân tâm,
tài tổ chức và năng lực ngôn ngữ có chiều rất sâu của văn hóa dân tộc và tầm rất
rộng của sự hiểu biết tinh thần của thời đại toàn cầu hóa, hơn thế, còn là một
nhà ngoại giao dày dạn kinh nghiệm trong việc thực hiện quan điểm đường lối của
Đảng.
Có thể
nói phẩm chất một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là phẩm chất hàng đầu của Chủ
tịch Hữu Thỉnh. Ông đã giữ gìn phẩm chất này từ trong ý thức - tư tưởng đến mọi
hoạt động, mọi giao tiếp. Xin đọc thêm bài Phép
thần diệu của lương tâm (tr. 134), ông kể về
chuyến đi Mỹ; đọc phát biểu tại hội thảo
thơ Đồng Đức Bốn - Mai Văn Phấn, ông đính chính một chữ của Đỗ Quyên (về Vy
Thùy Linh và thơ của nhóm Mở Miệng). Ông nói rõ “…Người đọc bình thường cũng nhận ra ngay thái độ chống đối, vu cáo, kích
động của những bài thơ độc địa này”(tr.272).
2. Ở phương diện “đối ngoại”, dân tộc và nhân loại là 2 nền tảng để ông đối thoại với
những vị khách nước ngoài đủ mọi thành phần. Ông không đề cập đến sự khác biệt
chính trị, kinh tế giữa các quốc gia. Ông triển khai vấn đề trong tinh thần hòa bình, hữu nghị và hội nhập văn hóa. Ông cho đó là một “lẽ
phải lớn”:
“…ở đâu và khi nào thì
tiếng gọi của hòa bình, của tình bằng
hữu cũng có sức tập hợp to lớn. Đó là một lẽ
phải lớn…”(tr.107). “Hòa bình là tài sản vô giá của loài người…Hòa bình là
khởi nguồn cho mọi khởi nguồn, là điều kiện của mọi điều kiện…Với thơ ca, hòa
bình là một niềm say mê, một cảm hứng sáng tạo vô hạn trong tình yêu con người”(tr.111).
Ông tự
hào về lịch sử dân tộc, ông xác định giá trị văn học Việt trong tầm vóc nhân loại.
Những câu văn của ông hào sảng, ông khái quát lên tư thế một dân tộc ở đỉnh cao
chiến thắng, đỉnh cao lịch sử và chân lý:
“…cuộc chiến đấu cho tự do độc lập
trên đất nước chúng tôi cũng đồng thời
là cuộc chiến đấu cho văn hóa dân tộc.
Đó còn là cuộc chiến đấu cho nhân loại,
vì Việt Nam kiên cường chống lại sự hủy diệt văn hóa trên quy mô lớn (tr.93).
“Là các nhà văn bước ra từ chiến
tranh, và đi lên từ những vết thương xé lòng, chúng tôi hiểu ánh sáng không bao
giờ cũ. Máu không bao giờ cũ. Tình bạn không bao giờ cũ”(tr.95)
Trong
bài Vẻ đẹp thơ ca và hơi ấm của tình hữu
nghị (tr.107), diễn văn khai mạc Liên hoan
Thơ châu Á-Thái Bình Dương lần thứ nhất 2-7/2/2012 tại Quảng Ninh
–Hà Nội, trước đại diện của 28 quốc gia Chấu Á-Thái Bình Dương, ông nói:
“Chúng tôi được biết rằng,
dưới tác động của nhiều nguyên nhân khách quan và do sự đòi hỏi của cuộc sống,
thơ ca của các quốc gia đang cùng có sự chuyển động, tự cách tân mạnh mẽ. Thơ
ca của đất nước chúng tôi không nằm ngoài xu thế đó. Hoặc rút vào tháp ngà hoặc
là trở thành người đồng hành với nhân dân. Thơ ca của chúng tôi chọn phương án
thứ hai. Sự lựa chọn đó là tuyệt đối. Và đó cũng chính là truyền thống của thơ
ca Việt Nam qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Nhờ bám rễ rất sâu vào đời
sống của nhân dân, nên thơ ca của đất nước chúng tôi có truyền thống là một
trong những loại hỉnh nghệ thuật có khả năng lưu giữ và chưng cất kỳ diệu nhất
vẻ đẹp tâm hồn dân tộc…Mở với đời sống. Mở với nhân loại… Đại diện ưu tú nhất về
sự kết hợp các giá trị dân tộc và nhân
loại là chủ tịch Hồ Chí Minh, người mà cuộc đời và sự nghiệp đã thuộc về những
giá trị chung nhất của loài người...Người
đã chứng minh một cách tuyệt đẹp thơ ca là khí phách, lương tâm và danh dự dân tộc”(tr.110)
Ông ca
ngợi nền văn học Việt Nam:
“… nền văn học Việt Nam có lịch sử lâu đời, độc đáo về bản sắc
và luôn luôn phát triển theo xu hướng mở. Đó là một nền văn học thấm nhuần tư
tưởng nhập thế tích cực và chủ nghĩa nhân văn sâu đậm luôn luôn gắn bó với số
phận con người; chia sẻ, nâng đỡ những bất hạnh trong cuộc sống, không ngừng chống
lại mọi cái xấu cái ác góp phần hoàn thiện con người và đạo đức xã hội. Đó là một
nền văn học xả thân vì vận mệnh Tổ quốc,
rực cháy chủ nghĩa yêu nước, khát vọng độc lập, tự do và hạnh phúc con người,
kiên cường chống lại mọi sự áp đặt và xâm lược bất kể từ đâu tới…”(tr.126)
Các vị
khách nước ngoài nghe Chủ tịch Hữu Thỉnh phát biểu, chắc họ có thể đồng thuận
được ở những “lẽ phải lớn”, những
tình cảm lớn và những vấn đề lớn mà ông đặt ra. Đồng thời qua ông, họ cũng nhận
ra tầm vóc con người Việt Nam trong quá khứ và con người Việt Nam hôm nay. Ở
ông, tỏa sáng trí tuệ của dân tộc, cháy bừng lên lòng yêu nước và tự hào dân tộc.
Một tư thế văn hóa Việt, đĩnh đạc bước vào toàn cầu hóa.
Ông nói đến sứ mệnh nhà văn toàn cầu: “Chúng ta sẽ cùng nhau làm tất cả những gì
mà một nhà văn có thể làm được để giảm bớt sự qúa tải của những nguy cơ đang đè
nặng lên hành tinh nóng bỏng của chúng ta.”(tr.126).
Ông kể
về một kinh nghiệm và kêu gọi: “Đối mặt với sợ hãi phải được thay thế bằng đối
mặt với hy vọng. Kinh nghiệm này
không còn mới. Tồn tại dạy chúng ta điều đó….Nào, chúng ta hãy cùng nhau mở ra
những trang mới”(tr.124).
Ông nói đến chân lý và tình người: “…Cuộc sống có thay đổi
bao nhiêu thì chân lý và tình người
cũng không bao giờ cũ. Trong mọi hình thức giao tiếp, không có hình thức nào
giúp con ngưởi bắt gặp chính mình và bắt gặp đồng loại kỹ càng và say đắm như
văn chương. Còn có ở đâu, không đi mà vẫn đến, không hỏi mà vẫn biết, không hẹn
ước mà vẫn thành tri kỷ như tiếp nhận văn chương (tr.129)… Vì chất lượng cuộc sống
mà con người mãi mãi cần đến văn chương. Đó là một xác tín.”(tr.130).
Xét về chính trị, ông đã thực hiện rất tốt nhiệm vụ góp phần đưa Việt Nam
hội nhập văn hóa với toàn cầu, quảng bá văn học Việt Nam ra thế giới. Và đây là
một kết quả cụ thể: qua sự tác động của trung tâm William Joiner, “nhằm phá bỏ hàng rào cấm vận của Chính phủ Mỹ
chống Việt Nam” (tr.116);
“…làm thay đổi cách nhìn của ngưới
Mỹ với Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ của họ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc của Việt Nam”(tr.118).

Nhà thơ Hữu Thỉnh (trang phục xám) tại Hội thảo Văn học thiếu nhi tổ chức tại Đồng Nai (tháng 5/2011), cùng với lãnh đạo tỉnh và Hội VHNT Đồng Nai.
Tác giả Bùi Công Thuấn đứng ở bìa trái.
3. Làm Chủ tịch Hội
Nhà văn Việt Nam 4 nhiệm kỳ (2000-2020) nhà thơ Hữu Thỉnh đã làm được nhiều
việc cho Hội Nhà văn. Những công việc cụ thể hàng năm ông báo cáo trong Hội nghị
công tác văn học, và trong báo cáo cuối mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Những báo cáo này
không in trong Bến văn và những vòng
sóng. Duy nhất có một Báo cáo tổng kết Công tác văn học 5 năm (2000-2004), và bài Diễn văn kỷ niệm 60 năm xây dựng và phát triển Hội Nhà văn (1957-2017), vì thế người đọc không hình dung được cụ thể những đóng góp của
ông cho văn học.
Với Những “diễn văn” in trong Bến văn và những vòng sóng, hướng về các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (đặc biệt các nhà văn trẻ), Chủ tịch
Hữu Thỉnh đề cập đến nhiều vấn đề văn học. Ông trình bày những nhận thức về thực
tại hoạt động văn học, gợi mở những cách hiểu, ông đề xuất những giải pháp hành
động. Phương pháp luận của ông là phương pháp luận Marxist, nhờ thế khi trình
bày vấn đề văn học trong tương quan với thực tại xã hội, những ý kiến của ông
có sức thuyết phục, quan điểm của ông rạch ròi, dứt khoát.
Trước hết ông khẳng định sự đúng đắn của đường lối văn nghệ của
Đảng: “Thời gian đã chứng tỏ sức sống của
các Nghị quyết quan trọng của Đảng về văn hóa, văn học nghệ thuật. Nhưng chúng
ta còn nợ nhiều vấn đề quá. Bao nhiêu giải pháp rất hay, nhưng chưa được thể chế
hóa. Bao nhiêu hạt giống trí tuệ quý báu nhưng chưa tỏa bóng mát trong hiện thực.(tr.68).
Ông xác định nhiệm vụ cho Hội Nhà văn: “Đại hội Nhà văn lần thứ VII xác định mục
tiêu của toàn giới nhà văn là phấn đấu để có thêm nhiều tác phẩm có chất lượng cao về tư tưởng và nghệ thuật… Đây là nhiệm
vụ chính trị số một, quyết tâm số một
của tất cả chúng ta”.(tr.21)
Ông khẳng định đóng góp của văn nghệ sĩ: “Sự ổn định của văn nghệ đem đến sự ổn định chung của đất nước, một
dòng chảy lành mạnh của văn nghệ góp vào tính tích cực của xã hội, đó là cống hiến rất quan trọng của giới văn học
nghệ thuật nước nhà đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân
ta”(tr.64)
Ông nhận định về thành tựu 20 năm đổi
mới văn học: “Có thể nói 20 năm đổi mới
đi vào lịch sử như một trong những thời kỳ thăng hoa nhất của văn học dân tộc.
Đó là thời kỳ phát triển cộng sinh của nhiều phương pháp sáng tác. Đường biên
văn học được mở rộng. Tâm lý sáng tạo được giải phóng. Một sự thông thoáng chưa
từng có trong lựa chọn đề tài, chủ đề, nhân vật. Đạo đức xã hội trở thành trung
tâm chú ý của các nhà văn. Con người được miêu tả như chính nó với thân phận, nỗi
niềm những ẩn khuất vừa hiểu được vừa không thể hiều hết, vừa cao cả vừa phàm tục,
vừa gần gũi vừa kỳ bí. Những cố gắng đổi mới hình thức diễn ra ở tất cả các thể
loại. Những cây vút trẻ xuất hiện ngày càng nhiều, đem đến những giọng điệu mới.
Ưu điểm nổi bật của sáng tác là tính đa dạng” (tr.17-18; Báo cáo đề dẫn Hội nghị Lý
luận phê bình lần thứ hai-Đồ Sơn, Hải Phòng-3,4,5/10/2006)
Tuy vậy,
ông cũng thấy rõ vấn đề: “Cái thiếu nhất,
theo tôi đối với người sáng tác hiện nay là cơ sở triết học. Ngại triết học, thiếu triết học là một trong những
nguyên nhân và hạn chế tầm nhìn, tầm tư tưởng và sự khái quát con người và thời
đại”(tr76).
Ông đề
xuất: “Lý luận cho nhà văn là lý luận
nào? Đó là Mỹ học Mac- xít, tư tưởng Hồ Chí Minh và tinh hoa văn hóa dân tộc”
(tr.77); “Nói gì thì nói, và bất luận thế nào, triết học Mác-xít vẫn là đỉnh cao khoa học cuả thời đại chúng ta mà
không phải ai cũng có thể chiếm lĩnh. Mỹ học Mác-xít là sự vận dụng chủ nghĩa
Mác-Lênin vào lĩnh vực mỹ học. Ngày nay…chủ nghĩa Mac-Lênin, Mỹ học Mac-xít vẫn
là ngọn cờ tiên phong là nhận thức luận đúng đắn nhất giúp cho con người đi tới” (tr.77)
Ông
nói về tác phẩm đỉnh cao: “Đó là những
tác phẩm đáp ứng được nhu cầu thẩm mỹ và nhu cầu xã hội của thời đại, thỏa mãn
nhu cầu về tình cảm, đạo đức, tư tưởng của con người. Nó mở rộng không gian
tinh thần của con người, giúp con người vượt khỏi cá nhân chật hẹp để vươn tới những vấn đề có tầm nhân loại,
và đó là những tác phẩm giúp cho bạn đọc vừa cảm thụ văn học vừa tự soi chiếu,
tự đối thoại, tự điều chỉnh bản thân mình…Đó là những tác phẩm góp phần tạo nên
chất lượng sống của con người và xã hội” (tr.21)
Ông thực
sự ưu tư:
“Sáng tạo được tác phẩm hay, có ích
là khát vọng muôn đời của nghệ sĩ. Nhưng khát vọng đó hiện nay đang vấp phải một
nghịch lý. Tự do sáng tạo, điều kiện
sáng tác được mở rộng nhưng chất lượng hiệu quả lại không tương ứng…Văn học nghệ
thuật có những mặt suy thoái”(tr.12)
“Tình
trạng trung bình, làng nhàng là căn bệnh trầm kha nhất của văn học ta hiện
nay không được phê phán đến nơi đến chốn” (tr. 20)
“Đội quân nghệ thuật hiện nay thật
đông đảo. Nhưng nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta thấy chất lượng không tương xứng
với số lượng. Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị khóa X báo động một nguy cơ có thật, đó là tình trạng nghiệp
dư.(tr.69)
“Một trong những nguy cơ ấy đã xuất hiện, là số người đọc văn học bây giờ thấp đến mức
báo động…
Ông nhận
xét về hiện trạng thơ:
Người làm thơ đông hơn người đọc. Và
thậm chí dẫn đến cái chết của thơ ca” (tr.42)
“Thơ của ta hiện nay đang có nhiều vấn đề thật.
Người làm thơ rất đông nhưng công chúng thơ thì teo lại. Trên báo chí, chúng ta
gặp một cánh đồng bất tận những lời khen…”; “Thơ ta hiện nay có 2 trọng bệnh, một
là ca hát véo von, hai là xa lông
hóa. Véo von là tự bằng lòng, lặp lại mãi giai điệu cũ… Xa lông hóa là rơi vào
sự nhấm nháp cá nhân, ngắm vuốt xiêm áo, tuyệt đối hóa hình thức, bịt kín mọi mối
giao cảm vớ quần chúng” (tr 270).
Ông nói đến “Những
vấn đề có tính muôn thuở”:
“Tài năng là Trời cho nên Trời cũng có
thể lấy đi bất cứ lúc nào”(tr.34).
“Tài
năng thực sự thời nào và ở đâu cũng luôn luôn hiếm và quý. Đó là câu chuyện
muôn một. Tài năng là thiên bẩm, không thể ban phát, không thể vay mượn. Tài
năng là sở hữu cá nhân, nhưng lại mang tính xã hội”(tr.54).
“Từ khi Con người trở thành Con người, nó phải đối mặt với 2 sự bất công
truyền
kiếp. Đó là sự bất công về tài năng và sự bất công về nhan sắc. Đến một ngày nào đó, mọi bất
công xã hội sẽ bị xóa bỏ, thì sự bất công về tài năng và nhan sắc vẫn còn.”(tr.67).
“Nói cho cùng, các trường
phái không thể thay thế được tài năng,
trong thơ không có tài thì còn làm nên được cái gì? (tr.271)
Đây
là quan điểm của ông về cách tân thơ: “Tiếp thu thế giới là
tiếp thu các tinh hoa, không nên họ có lãng mạn, tượng trưng, siêu thực, tân
hình thức, hậu hiện đại, ta cũng phải lặp lại y chang…cách tân không phải là cắt
đứt với truyền thống, mà để nghe truyền thống rõ hơn, nhân cái truyền thống ấy
trong hiện đại” (tr. 271)
Ông
bày tỏ sự tin tưởng:
“Hy vọng, bằng con đường
văn học, các nhà văn chúng ta cùng nhau thiết
lập quyết định luận của trật tự thế giới mới, lấy tình hữu nghị thay thế
choi triết lý sức mạnh,lấy văn hóa thay cho vũ khí”(tr.95)
“Châu Á đang chứng minh
rằng, người ta có thể xây dựng những
thiên đường ngay trên cõi trần gian”(tr.108)
“Trong sứ mệnh chinh phục
con người, thơ ca có những phép màu nhiệm đặc biệt… Thi ca có sức mạnh đặc biệt…Nó làm cho mỗi con người tự tin cất bước
trong quyền năng của cái đẹp và điều thiện. Nó luôn đặt con người trong trạng
thái tự do suy tư và chiêm nghiệm. Chừng nào con người còn khả năng tư do duy
tư và chiêm nghiệm thì hiểm họa vẫn còn có
khả năng được ngăn chặn nhờ những con đê của đạo đức. (tr.109)
“…thơ ca không hề muốn cạnh tranh với
tôn giáo, bởi chính thơ ca đã là một tôn
giáo. Tôn giáo cuả niềm tôn vinh con người…Vì thế còn con người đúng nghĩa
của nó thì còn thơ ca”(tr.109)
Về kinh tế thị trường, ông nói: “Nghệ thuật dứt khoát không thể làm tay sai
cho thị
trường”(tr.70). Nhưng ông nói thêm: “Tất
cả đã thay đổi. Tất cả đòi hỏi được thay đổi”…”Một khi đã hình thành và được chấp
nhận có một thị trường văn học nghệ thuật thì không thể không chấp nhận các thượng
đế của thị trường ấy”(tr.75)
Về phê bình văn học, ông nhận định: “Nhiều vấn đề lý luận chưa được tổng kết nghiêm túc, còn tồn nghi nhiều ngộ nhận. Việc giới thiệu lý
luận của nước ngoài làm khá đậm, nhưng đề xuất, kiến tạo, xây dựng lý luận văn
học đổi mới của Việt Nam, cho Việt Nam thì chưa làm được bao nhiêu “(tr.19).
Ông
cũng đề cấp đến tính hiện đại (tr.35), về “Cái mới” trong văn học (tr.55), về thị trường, về “quyền lực mềm” (tr.70), về chống suy thoái văn hóa…(tr.71). Theo ông, “Quyền lực của văn hóa là
quyền lực của lương tâm, của điều thiện”
(tr.70).
Ông cũng đưa ra những quan điểm có tính uốn nắn với những sai lầm của
sáng tác và phê bình. Chẳng hạn, ông nói về khuynh hướng “Tuyệt đối hóa phương pháp sáng tác”. “Lấy thi pháp thay cho tài năng. Thực chất là tuyệt đối hóa hình thức”
(tr.73); “Nếu
tuyệt đối hóa hình thức mà có tiền đồ thì nhóm Xuân Thu Nhã Tập đã thành một
dòng thơ lớn tồi. Nhưng nó biến mất và chỉ để lại một tấm biển báo nguy hiểm
bên cạnh đường thơ: ‘Chủ nghĩa hình tức, cẩn thận, có mìn’”(tr.272)
Có
thể nhận thấy Chủ tịch Hữu Thỉnh đã bám sát thực tiễn văn học, có tầm bao quát sâu
rộng, đứng trên lập trường văn nghệ Marxist ông đáng giá đúng bản chất chính trị-xã
hội của các vấn đề văn học và một nhiệt tình bền bỉ thực hiện tốt các Nghị quyết
của Đảng về văn hóa văn nghệ. Văn học Việt Nam 45 năm qua (1975-2020) đã đạt
nhiều thành tựu trong nhiệm vụ xây dựng văn hóa, xây dựng con người góp phần
cào công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, đặc biệt là sự quảng bá văn học Việt
Nam ra nước ngoài.
Nhà thơ Hữu Thỉnh khẳng
định: “Sự ổn định của văn nghệ đem đến sự
ổn định chung của đất nước, một dòng chảy lành mạnh của văn nghệ góp vào tính
tích cực của xã hội, đó là cống hiến rất quan trọng của giới văn học nghệ thuật
nước nhà đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta”(tr.64).
4. “Diễn văn” của Hữu
Thỉnh có tính hùng biện. Tính hùng biện thể hiện trước hết ở sức thuyết phục người nghe, người đọc
bằng cả chiều sâu tư tưởng và tình cảm. Ông phát biểu với thái độ hết sức tự
tin. Ông tin vào lịch sử 4000 năm hào hùng chống ngoại xâm của dân tộc, tin vào
nền văn hóa có bản lĩnh dung hợp mọi yếu tố từ bên ngoài vào của cha ông, tin
vào một nền văn học gắn bó với nhân dân, thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa nhân đạo, và căn bản là ông tin vào kháng chiến và cách mạng, tin
tưởng sâu sắc đường lối văn nghệ của Đảng, vào chân lý của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Sự tự tin kết hợp với vốn văn hóa, văn học sâu rộng, được soi sáng bởi triết học
Mac-Lênin, cùng với khả năng bẩm sinh về ngôn ngữ, về sự hiểu biết sâu sắc về
con người, khiến cho những phát biểu của ông trong bản chất đã đủ tính thuyết
phục.
Nhưng không chỉ có vậy.
Hữu Thỉnh luôn có những câu văn “đóng đinh” vào trí nhớ người nghe. Những câu
văn này chứa đựng những chân lý hiển nhiên và có thể đứng một mình. Nó có sức
gây ấn tượng và tạo nên nhiều mỹ cảm (tương đồng với những lời bình ngoại đề có
tính minh triết trong Truyện Kiều). Xin đọc:
Ông nhận xét về văn trẻ:
“Dàn đồng ca khá mạnh nhưng còn ít những giọng lĩnh xướng
vang xa”.
“Thêu thùa cho cá nhân thì khéo, may cắt cho thiên hạ còn ít
dụng công.(tr.32)
“Tài năng là Trời
cho nên Trời cũng có thể lấy đi bất cứ lúc nào”(tr.34).
Đây là trải nghiệm chân lý:
“Là các nhà văn bước ra từ chiến
tranh, và đi lên từ những vết thương xé lòng, chúng tôi hiểu ánh sáng không bao
giờ cũ. Máu không bao giờ cũ. Tình bạn không bao giờ cũ”(tr.95)
“Đối mặt với sợ hãi phải được thay thế bằng đối
mặt với hy vọng. Kinh nghiệm này
không còn mới. Tồn tại dạy chúng ta điều đó”(tr. 124).
Nhìn
thẳng vào sự thật:
“Thiếu cá tính sáng tạo
có 2 nguyên nhân, một là bất tài, hai là sợ hãi”(tr.65).
Nói về ứng xử văn hóa:
“Ứng xử với tài năng cần một tài
năng, ứng xử với tấm lòng cần một tấm lòng” (tr.63)
Nói về
phương pháp sáng tác:
“Không cần phương pháp gì cả là một phương pháp cao nhất. Vì
thơ đã đụng đến tâm hồn” (tr.121)
Trong nghệ thuật biểu đạt, Hữu Thỉnh dùng nhiều thủ pháp viết
văn tác động trực tiếp tâm lý người nghe
(bằng cả thị giác, thính giác, cảm giác…):
Sử
dụng phép trùng điệp cấu trúc kết hợp với tăng cấp, kết hợp lý trí và cảm xúc,
hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ: “Là các
nhà văn bước ra từ chiến tranh, và đi lên từ những vết thương xé lòng, chúng
tôi hiểu ánh sáng không bao giờ cũ. Máu không bao giờ cũ. Tình bạn không bao giờ
cũ”(tr.95).
Lập luận nâng lên và mở rộng dần tầm
tư tưởng: “…cuộc chiến đấu cho tự do độc
lập trên đất nước chúng tôi cũng đồng
thời là cuộc chiến đấu cho văn hóa dân tộc.
Đó còn là cuộc chiến đấu cho nhân loại,
vì Việt Nam kiên cường chống lại sự hủy diệt văn hóa trên quy mô lớn”(tr.93).
Sử dụng tính từ kết hợp với phép trùng
điệp cấu trúc câu tạo nên hiệu quả bất ngờ: “Cuộc sống chào đón họ và có thể nói dành cho họ điều kiện sáng tạo tốt
nhất mà không thế hệ nào trước đó có được. Một không gian tinh thần rộng thoáng, một hiện thực vạm vỡ, mới mẻ đến ngỡ ngàng, một công chúng đông
đảo mà dân trí được nâng cao từng ngày, tất cả tạo nên một ‘cánh đồng bất tận’
cho các tài năng trẻ nảy nở và phát triển” (tr.52).
Sử dụng so sánh bằng hình ảnh (gợi âm
thanh, cảm xúc, trí tưởng tượng) cũng tạo nên hiệu quả hùng biện của văn Hữu Thỉnh:
“Tuyệt đối
hóa hình thức, tách rời hình thức ra khỏi chỉnh thể văn học, chẳng khác nào đập
vỡ chiếc cốc pha lê, biến nó thành những mảnh vụn mà tác dụng duy nhất chỉ có
thể là sát thương văn học và nhiễm trùng văn học”(tr.37).
Có
thể nói “diễn văn” của Hữu Thỉnh vừa hùng biện, vừa tài hoa. Điều này có căn gốc
từ sự kết hợp nghệ thuật lập luận với kiểu ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, cảm xúc
và giàu sức gợi, tạo nên sự độc đáo của cá tính sáng tạo. Nói cho đúng, “diễn
văn” của Hữu Thỉnh còn tập trung toàn bộ thế giới tâm hồn, lý tưởng, vốn sống,
tính cách, bí mật của tài năng và sự trải nghiệm của ông.
Nền tảng
“Lý luận văn học” ông sử dụng là “lý luận văn học truyền thống”(chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và văn hóa dân tộc). Không thấy ông vận dụng những
lý thuyết văn học đương đại để phân tích những vấn đề của thời đại mới. Phải
chăng ông bảo vệ “truyền thống” một cách cực đoan khi ông nói về phương pháp
sáng tác: “Không cần phương pháp gì cả là
một phương pháp cao nhất. Vì thơ đã đụng đến tâm hồn” (tr.121)?
Nếu vậy
thì khó thuyết phục được người viết văn trẻ khi họ say mê đi tìm “cái mới” và
ít nhiều họ đã góp phần làm mới văn học Việt hôm nay. Chính ông cũng đã từng
phàn nàn về tình trạng cũ quá của văn học Việt: “Còn rất hiếm sự đột khởi táo bạo về ngôn ngữ tiểu thuyết, về cấu trúc
tác phẩm, đặc biệt là về triết lý nghệ thuật… Yếu tố thể nghiệm làm mới tiểu
thuyết ít được quan tâm. Sau bao nhiêu năm, nhịp điệu tiểu thuyết vẫn chậm chạp,
kề cà, rậm rạp, dẫn đến tình trạng số trang thì dày nhưng dung lượng thì mỏng”
(tr.73).
MỘT TẤM LÒNG VỚI NHỮNG TẤM LÒNG
Trong Bến
văn và những vòng sóng có 34 bài viết về các nhà thơ, nhà văn gồm nhiều
thế hệ. Có những bài đọc trong dịp kỷ niệm 100 năm một tác giả trước 1945. Có
bài viết về các nhà thơ cách mạng, về những người bạn, người anh trong kháng
chiến, viết về các tác giả đương đại. Có cả bài như “điếu văn” trong tang lễ,
và bài giới thiệu tác phẩm.
Những
bài phê bình tác giả này được viết như một tiểu luận. Nhà thơ Hữu Thỉnh nói rõ
thói quen “Đọc ngược văn bản. Nghĩa là
qua thơ, tôi đi tìm tác giả… hiểu hành trình thơ của tác giả” (tr.409). Văn tiểu luận của Hữu Thỉnh có sự kết hợp rất nhuần nhiễn giữa trực giác
cảm thụ nghệ thuật tinh tế với cách viết tùy bút, nghiên cứu và phê bình. Ông tạo
ra một phong cách rất riêng.
Hữu Thỉnh
sử dụng phương pháp phê bình Marxist khi “đi
tìm tác giả”. Trước hết ông quan tâm đến bối cảnh lịch sử xã hội của nhà
thơ nhà văn. Ông dựng lại cuộc đời của họ trong bối cảnh đó. Rồi đứng trên yêu
cầu nhiệm vụ Cách mạng của văn học, ông đánh giá những giá trị văn học mà nhà
văn ấy cống hiến. Yêu cầu ấy là: Văn học là vũ khi đấu tranh cách mạng. Nhiệm vụ
ấy là, nhà văn là chiến sĩ của Đảng trực
tiếp góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tất nhiên là tùy từng
tác giả cụ thể mà Hữu Thỉnh vận dụng linh hoạt phương pháp phê bình này.
Nhìn
chung, những tiều luận về tác giả văn học của Hữu Thỉnh đọc hấp dẫn và rất thuyết
phục. Ông thực hiện nhiệm vụ chính trị bằng cái tâm chân thành, bằng sự trân trọng
rất mực đối với người hiền tài và bằng sự thấu hiểu, bao dung nhân hậu đối với
những phận người. Những nhận xét của ông vừa có bề rộng của tầm khái quát lịch
sử thời đại, lại vừa rất cụ thể, chân tình đến gan ruột, tri âm tri kỷ. Những
trang bình thơ như có men say, bay bổng tuyệt vời của một tâm hồn nghệ sĩ. Hữu
Thỉnh có trực giác nghệ thuật rất mạnh và rất tinh; Ông phát hiện được ngay cái
thần thái tinh anh của tài năng. Ông tỏ ra tài hoa, giàu có và độc đáo vô cùng
trong diễn đạt ngôn ngữ, ý tứ, người khác khó học theo ông được. Thế nên bài viết
nào của ông cũng đem đến nhiều thú vị cho người đọc.
Thú vị
nhất là những kỷ niệm riêng tư của ông với từng tác giả. Ông sống rất sâu và hiểu
rất rõ từng người. Ông có cách kể gọn, sinh động, tỉ mỉ và chọn được những tình
tiết đắt giá để làm nổi bật cái tình của ông với bạn văn. Nhưng dù là chuyện
riêng tư, ông vẫn giữ được sự mực thước chính trị, vẻ đẹp nhân văn và sự chân
thành tri kỷ của tình bạn. Phương pháp tiểu sử của ông giúp ích rất nhiều cho
những nhà nghiên cứu văn học, những thầy cô giáo dạy Văn. Thế giới văn chương của
ông có bao nhiêu là tài năng, bao nhiêu là cái đẹp, bao nhiêu là giá trị trân
quý, dù những cuộc đời ông nói đến có chìm nổi, bi đát thế nào thì qua tấm lòng
của Hữu Thỉnh, thế giới văn chương là thế giới của cái đẹp, của những con người
đẹp, mà đẹp nhất là tình yêu tổ quốc, nhiệt tình cách mạng và sự đồng điệu văn
chương.
Đối với
những nhà văn tiền bối như Nguyên Hồng, Nam Cao,… ông dành cho họ sự tôn kính bậc
thầy. Ông viết: “Nguyên Hồng là một nhân
cách văn hóa đáng kính trọng;… ông ở trong một số ít người đã đến gần nhất hai
chữ hoàn hảo”(tr.385). Ông gọi Nam Cao là một bậc thầy: “Tên tuổi Nam Cao là niềm tự hào của văn học nước nhà. Các thế hệ nhà văn Việt Nam
mãi mãi nhớ ơn và noi theo tấm gương của người
thầy lớn Nam Cao” (tr.296)
Với những
nhà thơ nhà văn cách mạng như Lê Đức Thọ, Tố Hữu, Lê Quang Đạo, Hữu Thỉnh khẳng
định những giá trị tuyệt vời của cách mạng. Ông viết về thơ của đồng chí Lê Đức
Thọ: “Thơ Lê Đức Thọ là thơ trữ tình
chính trị…; Lê Đức Thọ là nhà cách mạng làm thơ, ông coi thơ như là một vĩ khí thêm vào các vũ khí, một phương tiện thêm vào
các phương tiện để thực hiện lý tưởng
của mình…; Tôi đọc thơ ông cũng trên
một nhận thức ấy.(tr.312).
Nhận
xét về thơ Tố Hữu, ông viết: “Tố Hữu hơn
một lần chứng minh rằng, tình ca và tráng ca hoàn toàn có thể và cần thiết kết
hợp với nhau để tạo nên hòa điệu đẹp đẽ của lòng yêu nước. Thơ Tố Hữu là cách mạng hóa tình cảm, tình cảm hóa cách mạng…” (tr.163); về phẩm chất nhà thơ, Hữu Thỉnh nhận
xét “Tố Hữu chứng minh rằng, nhà thơ
chân chính rất cần sự tiên phong về
chính trị và tư tưởng” (tr.167)
Với những
nhà văn nhà thơ một thời (trước đổi mới) như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Thi,
Chính Hữu,…Hữu Thỉnh với tấm lòng trân trọng người tài đã khẳng định tài năng
và đóng góp của họ với văn học nước nhà. Ông không nhắc lại những nặng nề thuở
trước, thay vào đó ông làm sáng lên tài năng, nhân cách và những nỗ lực của bản
thân nhà văn nhà thơ. Bài viết về Nguyễn Đình Thi (tr.171), về Chính Hữu (tr.194) có chất say đặc biệt.
Ông
nói về Con nai đen của Nguyễn Đình
Thi một thời bị phê phán: “Vấn đề Con Nai đen chỉ là vấn đề báo động sớm
sự leo thang của cái giả cái ác khi tiếng nói trung thực bị đặt ra ngoài vùng
ngoại diên của đời sống công quyền”(tr.179) “. Với Chính Hữu, người viết bài Ngày
về, một thời bị phê phán, ông không chỉ khẳng định giá trị của Chính Hữu,
mà có cả sự tri ân:“Anh Chính Hữu ơi! Anh
là niềm hạnh phúc là may mắn lớn nhất trong cuộc đời cầm bút của em”(tr.196); Hỡi các anh em Vân Hồ, Nếu không có anh Chính Hữu hồi đó thì chúng mình
tan tác chim muông từ khuya rồi”(tr.197)
Đây là
những lời chân thành ông viết về Vũ Trọng Phụng: “Có một dạo, trong trạng thái lạc quan có phần hơi thái quá, chúng ta
suýt nữa quên mất Vũ Trọng Phụng, tưởng như cuộc sống không cần đến ông nữa..
Chúng ta vui vẻ một cách bồng bột xếp nhà văn họ Vũ yên ổn một chỗ trong quá khứ,
trong kỷ niệm” (tr.
292). Cũng may, nhờ “đổi
mới”, những giá trị văn học của Vũ Trọng Phụng, và của nhiều nhà thơ nhà văn
khác như Phan Khôi, Quang Dũng, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trần Dần… đã được tôn vinh
trong nền văn học dân tộc. Hữu Thỉnh đã viết về những nhà thơ nhà văn “có vấn đề”
này trong tinh thần “đổi mới” ấy của Đảng.
Viết về các tác giả đương đại (Nguyễn Quang Thiều, Thanh
Thảo, Mai Văn Phấn…), ngòi bút của Hữu Thỉnh có đắn đo, rào đón hơn; và không
phải là không có lúng túng. Bởi ông không thể tiếp cận họ chỉ bằng hệ thống mỹ học
và thi pháp truyền thống. Đây là khám phá của Hữu
Thỉnh về bút pháp của Nguyễn Quang Thiều: “Dò tìm, tôi thử phác ra bút pháp của Nguyễn Quang Thiều (tr.328): “Bắt
đầu anh treo lên tường một bức tranh. Rồi anh tháo bộ khung đó ra, bức tường trở
thành một bộ khung mới. Rồi đến lượt nó, bức tường cũng bị tháo ra và không gian
của bức tranh cứ mở rộng thêm mãi ra hầu như vô tận để cho cái vô tận của thế
giới ùa vào. Và bức tranh bây giờ vừa là nguyên gốc vừa được vẽ thêm với bao
nhiêu màu sắc lạ. Đã hẳn đây là bút pháp phi tuyền thống, cảm hứng theo dõi dãn
nở. Mọi yếu tố vần điệu âm nhạc câu chữ đều bị tháo tung ra thay vào đó là các
yếu tố ẩn dụ, biểu hiện, ấn tượng, tân
hình thức” (tr.329).
MỘT TẤM LÒNG TRI ÂM
Nhà
thơ Hữu Thỉnh đã từng ước mơ: “Tôi luôn
coi sự đồng điệu giữa sáng tác và phê bình là một giấc mơ”(tr.66), và ông đã viết tiểu luận phê bình
trên tinh thần ấy.
Điều tôi tâm đắc ở ngòi
bút phê bình của nhà thơ Hữu Thỉnh là sự chân thành, tính trung thực rất mực
trong cuộc sống và trên trang văn. Ông thổ lộ điều này: “Những phút riêng tư đau buồn nhất, tôi luôn có Phật”(tr.373). Tôi hiểu thế này.
Kệ viết: Tâm tức Phật/ Phật tức tâm”.
Nguyễn Du viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba
chữ tài”. Ông nói “Tôi luôn có Phật”
tức là sự thể hiện một tấm lòng. Ông chịu khó đọc. Năng lực tổng hợp và trí nhớ của ông
thật tuyệt vời. Ông đã đọc lại Nguyễn Đình Thi, “gần 4000 trang tuyển tập và đọc thêm những trang nhà xuất bản để ra
ngoài, tôi thức với nhiều ngạc nhiên”(tr.183). Cũng vậy, với Chính Hữu, ông
nói:“Tôi dành đọc trọn vẹn tác phẩm (nhiều
lần) và tất cả những bài phê bình về thơ anh”(tr.198). Trong Hội thảo thơ Nguyễn
Đình Ảnh (tr.352), ông nói: “Tôi nhận thấy mình không đủ tư cách nếu không đọc mà chỉ nói bâng quơ ”(tr.355). Ông không chỉ đọc kỹ, ông còn nhớ từng
chi tiết kỷ niệm với mỗi người ông quen biết, dù cách xa đến hàng nửa thế kỷ (tr. 259).
Đọc Bến
văn và những vòng sóng, người đọc có thể hình dung ra hành trình cuộc đời
của Hữu Thỉnh. Những ngày còn bé, có thể Hữu Thỉnh đã cùng với Dương Thị Xuân
Quý đi chợ phiên Phú Vinh-Vĩnh Phúc (tr.386). Những ngày làm lính, ông chờ Phạm Ngọc Cảnh ở nhà số 4 Lý Nam Đế-Hà Nội để được in thơ (tr.348); được Chính Hữu dìu dắt và làm việc chung với ông hàng mấy chục
năm (tr.195). Rồi đi học Liên Xô với Nguyễn Thanh (tr.253); vào Tây Nguyên, mặt trận B5 để gặp Thu Bồn (tr.277). Đi học trường viết văn Nguyễn Du, dự những cuộc vui với Nguyễn
Quang Sáng ở An Giang, bị kẹt ở BangKok khi sang Hoa kỳ dự hội thảo Mùa hè của
trung tâm William Joiner
(tr.103;131). Ông ghi lại cả hương vị món bánh có mật ong và hạnh nhân do nhà thơ
Martha Collins làm đãi khách…
Sự trân trọng tài năng của ông thể hiện trong
mọi việc làm, trong những lời chia sẻ và ở thái độ ứng xử rất mực tình nghĩa. Bởi
ông ý thức rất rõ:“Tài năng thực sự thời
nào và ở đâu cũng luôn luôn hiếm và quý”(tr.54). Ông là hiện thân của con người Việt
Nam truyền thống và hiện đại. Tưởng niệm nhà thơ Dương Thị Xuân Quý, người đã
hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ lúc mới 28 tuổi, để lại con thơ, Hữu Thỉnh viết:“Tôi đã khóc khi viết những dòng này, và tôi
tự hào thấy rằng, trong thế hệ chúng tôi có một người như Dương Thị Xuân Quý…(tr.388). Ông đối thoại với Anh Đức: “Tôi viết những dòng này với lòng cảm phục,
thương tiếc sâu sắc và biết ơn anh, một nhà văn đã đạt đến độ trưng cất tài hoa
trong tác phẩm…”(tr.319)
Và hơn thế, Hữu Thỉnh
xác tín nhiệm vụ “xây dựng một đội quân văn hóa đủ sức chuẩn bị cho nhân dân ta bước
vào ngôi nhà của xã hội công nghiệp và xã hội thông tin”.(tr.53). Ông đã điểm danh một đội ngũ đông đảo,
hùng hậu tài năng của thi ca Việt Nam (bài Một
nền thơ đang chuyển, tr
141).
Nói một lời cặn kẽ, Hữu
Thỉnh là nhà thơ tài hoa, một nhà thơ tư tưởng. Ông còn là cán bộ lãnh đạo văn
nghệ kiên định lý tưởng, có bản lĩnh vững vàng, giàu tài năng và trải nghiệm.
Nghệ thuật ngôn ngữ của ông rất tuyệt. Sức thuyết phục của ông toát ra mạnh mẽ.
Nhìn ông bạn bè quốc tế thấy được tầm vóc nhà văn Việt Nam. Những “diễn văn” và
những tiểu luận phê bình của ông có nhiều giá trị, cả về lý luận và thực tiễn,
về một thời đại văn học rất quan trọng. Đó là văn học thời kỳ đổi mới (từ 1986
đến nay) mà ông là người trực tiếp có những đóng góp, những tổng kết, những
khai mở.
Trong Bến
văn và những vòng sóng, Hữu Thỉnh đã giải quyết nhiều vấn đề văn học của
một thời, song có những vấn đề muôn thuở
của văn học cần được tiếp tục thảo luận sâu rộng. Bài viết này mới chỉ tiếp cận
một cách sơ lược cuốn sách. Kính mong được trao đổi.
Kính chúc nhà thơ Hữu
Thỉnh sức khỏe, niềm vui và trọn vẹn một tấm lòng tri âm với văn chương.
Ngày 10/01/2021
Bùi Công Thuấn