Bài viết của Bùi Quang Tú
(nguồn: Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai)
Thời tuổi trẻ sống
ở Hà Nội tôi đã nếm trải biết bao thăng trầm của chiến tranh, ngấm cái hào hoa
lãng mạn của đất Thăng Long. Và nhất là được tẩm trong bầu khí quyển đặc sánh
văn chương. Nguồn sách báo dồi dào, kể cả sách báo tiếng Pháp mà tôi mù tịt chẳng
biết gì. Được gặp gỡ nhiều nhà văn, nhà thơ. Chao ơi, thằng bé bảy, tám tuổi mà
đã được tận mắt bao nhiêu người nổi tiếng. Vì tôi là con trai út nên ba tôi -
nhà văn Bùi Hiển thường cho đi theo. Bạn văn mà ba hay đến nhất là nhà thơ Chế
Lan Viên. Đoạn đường ngắn từ giữa phố Bà Triệu đến đầu đường Trần Hưng Đạo
không phải là cái cớ. Cái cớ mà năng đến với nhau tôi sẽ nói ở sau. Mỗi lần bạn
văn Bùi Hiển đến Chế Lan Viên vui ra mặt. Đang chăm chú trước chồng bản thảo,
khuôn mặt bỗng rạng rỡ, buông bút bận vội cái quần pijama, nhảy ra ngoài
sân tiếp bạn (Chế Lan Viên được phân hai phòng ngang ở Hội liên hiệp Văn học
Nghệ thuật, 51 Trần Hưng Đạo, chật chội và nóng nực). Trong lúc hai ông bố đang
cao đàm khoát luận thì hai ông con chẳng biết làm gì liền rủ nhau đi thi đấu cơ
bắp. Phan Lai Triều - con trai đầu của Chế Lan Viên và tôi kéo nhau ra giữa sân
vật nhau xem ai thắng ai. Kết quả là Triều rắn rỏi hơn đã đo ván anh chàng xì
ke - là tôi - ngã sõng soài trên cái sân lan man cỏ, lổn nhổn sỏi. Đó là kỷ niệm
tôi nhớ mãi khi đến chơi nhà thơ họ Chế.
Nhà thơ Chế Lan Viên thời trẻ (ảnh tư liệu)
Có một lần tôi vớ
được truyện ngắn đánh máy có tựa đề “Một câu chuyện trong chiến tranh”,
đọc xong dẫu không hiểu hết nhưng thấy hay, nhìn tên tác giả thì hóa ra là của
ba mình. Lạ lùng hơn đính kèm trang đầu của truyện là một mẩu giấy bằng hai
ngón tay với dòng chữ: “Hay và hay lắm Hiển à. Hiển đã vượt và vượt anh em
khá xa. Hoan”. Tôi hỏi ba Hoan là ai. Ba cho biết đó là Chế Lan Viên!
Ồ, hóa ra người
bạn ba thường cho mình đến chơi tên thật là Phan Ngọc Hoan. Chế Lan Viên là bút
danh. Tôi lấy làm ngạc nhiên vì những lời đề tặng của chú Hoan cho ba tôi quá đỗi
dịu dàng, thắm thiết. Tập thơ Ánh sáng và phù sa, một tập thơ quan trọng
đánh dấu sự chuyển mình từ Thung lũng đau thương đến cánh đồng vui, chú
ghi: “Tặng Bùi Hiển thương yêu, kỷ niệm một chặng đường Bình Trị Thiên -
Hà Nội”. Đến tập bút ký Thăm Trung Quốc lời lẽ quá đỗi ân tình: “Tặng
Bùi Hiển thương yêu, gửi bạn rất độ lượng với văn xuôi của tôi. Và tôi viết được
là nhờ sự giúp đỡ của bạn”. Sau này Chế Lan Viên là một trong những cây bút
viết ký xuất sắc. Tôi còn được đọc một bức thư của chú gửi từ Trung Quốc khi đi
chữa bệnh vào năm 1957 cũng rất cảm động: “Đi như Hiển thế là đúng. Cọ xát
cùng sự sống được tý nào hay tý ấy, viết được trang nào hay trang ấy, chứ ở
quanh Hội này chả làm gì... Sẽ làm một bài thơ tình bạn, tả những bóng bạn đang
sum vầy, tặng Hiển, Hanh, Lan, những người bạn nghiêng bóng xuống thơ Hoan, và
sức khỏe, cuộc đời Hoan”.
Ngoài sự thu hút
của văn chương chữ nghĩa, nỗi tò mò về tình bạn giữa nhà thơ họ Chế và nhà văn
họ Bùi cứ ngày càng “phình” ra, tôi vẫn chưa thể giải mã được. Và lại tiếp tục
chứng kiến mối thâm tình ấy.
Hè năm 1966, Chế
Lan Viên đã nổi như cồn với Sao chiến thắng, Gửi Kiều cho em năm đánh
Mỹ và ba tôi đã ghi dấu ấn văn xuôi với những bút ký Bám biển, Nợ máu.
Nói chuyện ở nhà hay cơ quan chưa đủ và cũng không tiện, hai người bạn hẹn hò
nhau ra quầy bán thực phẩm theo chế độ tem phiếu ở khu tập thể Kim Liên. Chế
Lan Viên đạp xe từ 51 Trần Hưng Đạo tới, ba tôi đi bộ ra. Một cái rổ và một cái
làn sắp hàng thế chỗ, hai ông ngồi chồm hỗm một góc sân đầy nắng nói chuyện
không dứt. Đến tháng 6 năm 1972 ba tôi và tôi đạp xe lên thôn Bài Lâm thượng,
xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây cũ - nơi Hội Nhà văn đang sơ tán để
thăm bà, mẹ và em gái. Nhà thơ Chế Lan Viên đang ở đấy, miệt mài lao động thơ.
Mỗi buổi sáng chú mặc bộ bà ba đen ra sông Đáy múc hai xô nước về cho vợ con
dùng rồi tất tả mang tập bản thảo, bộ ấm chén hạt mít đóng cửa phòng văn hì hục
viết. Thế mà thấy bạn lên liền buông bỏ công việc, tạm dứt mạch thơ rủ nhau đi
chơi chùa Hương. Chuyến đi ấy có cả tôi và Thắm (con chú Chế Lan Viên, sinh năm
1961, sau này là bác sĩ). Con đò lả lướt trên mặt nước dập dềnh rong rêu. Hai
nhà văn nhà thơ cao hứng đọc thơ Chu Mạnh Trinh tả chùa Hương, khen Xuân Diệu
thưởng thức giỏi (Xuân Diệu vừa có bài giới thiệu tập thơ Chùa Hương do Ty Văn
hóa Hà Tây xuất bản). Ngước nhìn phía trước, những dãy núi đá chập chùng, xám xịt,
bạc phếch tháng năm, cây cối lô nhô xanh rì mọc lên từ kẽ đá. Những ngôi chùa
thâm nghiêm lác đác xuất hiện. Đò cập bến, cuộc thử thách bắt đầu. Hai nhà văn
nhà thơ U50 cùng hai người trẻ hổn hển bước lên từng bậc đá cao và khúc khuỷu.
Chế Lan Viên vừa bước vừa than: “Ôi, cái tuổi năm mươi! Cái tuổi năm
mươi...”. Cuối cùng chúng tôi cũng leo lên được tới đỉnh, chui vào cái hang
lạnh, may mà có ánh nắng hắt vào từ cửa
hang nên có cảm giác như đang ở giữa tiết thu. Nước từ vòm hang nhỏ giọt đọng
thành những nhũ đá óng ánh, tua tủa trên đầu. Hai người trẻ mệt phờ nằm lăn ra
hai phiến đá đánh một giấc. Tôi chợt tỉnh giấc thấy ba và chú Chế một người thì
bó gối, một người duỗi chân trên một tảng đá to cứ nói chuyện miên man, thỉnh
thoảng lại bắn một câu tiếng Pháp. Đến xế chiều chúng tôi mới bước lên đò quay
về nơi sơ tán.
Sau giải phóng
miền Nam 1975, ba và tôi đến 190 Nam kỳ Khởi nghĩa (Hồi ấy có tên là đường Công
Lý) gặp cô Thường đang cùng cô Hà Phương (vợ nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn) đi tìm
mua nhà, loay hoay chưa chọn được cái vừa túi tiền lại ưng ý. Ba tôi dọa:
- Ông ấy bán hết
quần áo rồi!...
Tháng 7 tôi ra
Hà Nội, hai cha con lại đến nhà Chế Lan Viên. Chú hớn hở mời:
- Vào nhà uống
nước, có trà ngon.
Và nói lý do rời
bỏ Hà Nội:
- Tôi vào Nam trốn
rét. Thường đang chạy mua nhà trong ấy. Tiền mua nhà là công sức lao động của vợ
chồng tôi...
Tôi biết còn một
lý do nữa là cô chú đều có bà con thân thích ở trong Nam. Đến tháng 9 năm
1975 Chế Lan Viên chuyển hẳn vào Sài
Gòn, ở căn nhà một trệt một lầu trên đường Hòa Hưng (gần khám Chí Hòa). Sau đó
chuyển đổi từ căn nhà cũ sang căn nhà cấp bốn, đất rộng, nhiều cây trái như ổi,
mít, xoài, đu đủ, có cả ao nữa. Căn nhà thuộc ấp Tân Thới Sơn đường Lê Sát phường
Tân Qúy - quận Tân Phú, ngày xưa thuộc chốn hoang vu, nay đã trở nên sầm uất nhộn
nhịp. Địa lý cách trở không ngăn được tình bạn văn chương của hai nhà văn - nhà
thơ. Hễ có dịp vào Sài Gòn ba tôi lại đến nhà chú Chế Lan Viên ăn bữa cơm, khi
rôm rả, lúc trầm ngâm chuyện đời, chuyện văn.
Còn Chế Lan Viên
mỗi lần ra Hà Nội (đi họp hay đi công tác nước ngoài) lại ghé nhà Bùi Hiển ở
khu Trung Tự chơi, tiện thể sang thăm Phan Quang - nhà văn, nhà báo cùng công
tác Bình Trị Thiên năm xưa. Đường xá xa xôi, tiền bạc hẻo nên việc gặp nhau
cũng thưa thớt. Năng qua lại với nhau nhất là thư từ. Sau khi ba tôi qua đời
(tháng 3 năm 2009) gia đình có sắp xếp lại những thư từ của bạn văn, tất cả có
hơn một trăm thư, riêng thư của Chế Lan Viên chiếm khoảng năm mươi bức, có thư
ngắn viết dăm chữ trên cái danh thiếp (card visit), có thư dài bốn năm
trang, đa số là từ Sài Gòn gửi ra. Đọc
thư càng hiểu thêm nhà thơ “không kích tấc nào đo được” như đánh giá của
nhà phê bình Hoài Thanh, vừa rất con người vừa rất lớn lao. Có thư tỏ rõ niềm
vui ra tuyển tập của bạn với cách nói rất lạ và sự đồng điệu tuyệt vời: “Được
tuyển của ông rất mừng. Thôi, một đời đắp lại thành nấm mộ, tôi cũng như ông,
có gì liệu nấy. Bây giờ còn sống, viết được mới là chính... Tôi biết có nhiều
việc, ông đang suy nghĩ giống tôi, cũng tủm tỉm cười. Vì ta biết mọi việc sẽ là
như thế, như thế…” (năm 1985). Có thư viết sau khi mổ khối u ung thư phổi thiết
tha một nỗi nhớ bạn và quyết tâm vượt qua bạo bệnh để đóng góp cho văn học nước
nhà: “Nghĩ đến Hiển luôn đấy. Nằm viện lại ước có một chai rượu vang như ở
Nam Tư, hai anh em uống với nhau sau khi đã chu du các nơi của Liên bang Ti Tô.
Sức khỏe đã khá. Mong rằng Hiển và mình vẫn đang tại ngũ. Thư của Hiển động
viên mình rất nhiều. Những ông già làm nên nền văn học, rồi lại những ông già đứng
ra bảo vệ nền văn học. Hơn thế nữa, những ông già tiếp tục làm ra nền văn học mới.
Chả có việc gì lấy cái già ra tự đe dọa mình…” (năm 1988).
Dần dà mãi sau
này tôi mới giải mã được tình bạn chí cốt giữa chú Chế Lan Viên và ba tôi. Quê
khác nhau, chú Chế ở Quảng Trị, ba ở Nghệ An. Tính cách có vẻ trái ngược, chú
Chế thông minh, sắc sảo, nóng tính và trực tính. Ba tôi hiền lành, điềm tĩnh,
khoan dung. Vì sao lại chí cốt với nhau như vậy. Tình bạn này trong giới văn
chương thời ấy nhiều người biết. Chìa khóa nằm ở chỗ đồng hội đồng thuyền và đồng
điệu. Cùng ở trong cái nôi Chi hội Văn nghệ Liên khu Tư do, Lưu Trọng Lư làm Chi hội trưởng. Có một câu
chuyện như sau: Năm 1949, khi Bùi Hiển làm Uỷ viên Kiểm tra của Sở Thông tin
Tuyên truyền Liên khu Tư theo gợi ý của nhà văn Hải Triều – Giám đốc Sở, nhà
văn Bùi Hiển có chuyến đi công tác vào vùng tạm chiếm Bình Trị Thiên. Dự định
chỉ đi sáu tháng nhưng đam mê công việc thành thử kéo dài đến một năm rưỡi. Trở
về Chi hội Văn nghệ Liên khu Tư, Chế Lan Viên vốn đã thân thiết với Bùi Hiển liền
giới thiệu ngay vào Thường vụ Chi hội khi nhà văn không phải trong Ban chấp
hành. Về nguyên tắc là sai nhưng đã giúp được bạn văn có được chế độ sau khi bị
cơ quan cũ cắt lương. Cả hai cùng xông pha ở chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa,
đi sâu vào đời sống kháng chiến, học hỏi cách cảm nghĩ và lời ăn tiếng nói của
quần chúng. Chế Lan Viên ghi chép dày đặc trong các cuốn sổ tay, sau này có tặng
cho bạn văn xuôi hai cuốn để làm chất liệu sáng tác. Rồi cùng sinh hoạt ở Hội
Nhà văn với biết bao sóng gió và tràn đầy cảm hứng sáng tạo. Từ cái nền đồng hội
đồng thuyền ấy còn có một sự đồng điệu trong cảm nghĩ, trong tâm hồn. “Tôi
biết có những việc ông đang nghĩ giống tôi, cũng tủm tỉm cười. Vì ta biết mọi
việc sẽ là như thế, như thế…”. Từ nơi xa nhà thơ họ Chế viết cho bạn, sự đồng
điệu này tạo nên sức thu hút của tình bạn keo sơn.
Đất nước ta, văn
hóa Việt Nam đã sản sinh ra nhà thơ thiên tài Chế Lan Viên. Để tạo nên kỳ tích ấy
không thể không kể đến những đóng góp của một số bạn văn của ông.
B.Q.T