Tản văn của Lê Quang Trạng
(nguồn: Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai số 42)
Những đứa con
không quan tâm nhiều về câu chuyện năm nẵm ba mẹ lên phố rời quê. Có đôi lần
làm giấy tờ, đứa con điện thoại hỏi ba, nguyên quán của mình ở đâu ba? Ông già
đọc từng chữ “Bàu Sen, Rạch Rập” một cách chậm rãi. Không biết bên kia điện thoại
ông già đang nghẹn ngào, tủi thân khi những cái tên ăn vào máu của mình, mà đứa
con lại thấy bỡ ngỡ, xa xôi. Nó sẽ bối rối khi ghi ra trên con chữ mặc dù ông
già đã phát âm theo đúng ngữ điệu Sài Gòn!
Mấy mươi năm sống
ở tháp phố, ba sưu tầm và treo đầy căn chung cư chật chội những tấm ảnh cũ. Phải
chi là ảnh khói đốt đồng trôi bảng lảng như những tấm ảnh nghệ thuật phim trường
photoshop ảo diệu thì nói làm chi. Đằng này ba treo ảnh trắng đen, ông nội già
nua, lưng còng queo ngồi hút thuốc rê bên bờ đê. Đứa con nhìn suốt mấy mươi năm
vẫn không nhận ra ảnh đẹp chỗ nào. Hay là tấm ảnh chụp chiếc nóp cỏ bàng, cái
phảng, cái cù nèo... làm đứa con bối rối, không biết vật đó là gì, dù cũng có
năm lần bảy lượt ba nói cho nghe. Đứa con dạ dạ cho ông già vui lòng, mà sau tiếng
“dạ”, hai chữ “cù nèo” rớt ra khỏi tai, chìm lẫn vào tiếng phố xô bồ xe cộ...
Nhà chật nhưng ba
vẫn rộng lòng dành hẳn một không gian cho tổ tiên. Đứa con nhìn bàn thờ treo
sáu bức ảnh người xưa, có tấm kém chất lượng, đã nhòe. Những đứa cháu ngơ ngác
nhìn bàn thờ mà không biết rõ rành phải gọi là ông gì, bà gì cho đúng. Ba mẹ
thường xuyên chỉ cho đám cháu con, đó là ông cố nội, tức là ông nội của ông nội;
còn đây là bà cố, tức là mẹ của bà nội... Chỉ mấy cụm từ thôi, mà vẫn không sao
làm cho đám cháu nhớ xuể. May mắn thay chúng ở phố, nên được đi học ngay từ rất
nhỏ. Bằng trí thông minh, chúng suy luận ra: theo tia Y, phía bên trái là nội,
phía bên phải là ngoại; theo tia X ở phía trên là ông cố có thêm chữ nội, ngoại;
còn ở dưới là ông cố hoặc bà cố thôi. Đám cháu khoái chí, chỉ lại cho ông bà
cách tính gia phả. Ông cười, nhưng lòng nghe méo mó, mà lòng chập chờn suy
nghĩ, không biết khi mình đoàn tựu tổ tiên, tụi nhỏ có còn nhận ra? Hay chúng sẽ
định danh ông bà bằng bài toán tia X, tia Y...
Ba mẹ vẫn không
nói rằng mình luôn mang một nỗi nhớ quê. Bởi khi xưa lúc bấm ruột lìa quê lên
phố, thì ba mẹ phải cố gắng làm ngày làm đêm để nuôi bầy con, mua nhà, tích vốn.
Mấy năm sau con đi học thì lại bù đầu làm thêm ca 2 ca 3, bởi chi phí cho con
cao ngang tiền lương mỗi tháng. Đến lúc con vào đại học, lại lo toan dựng vợ gả
chồng. Con yên bề gia thất, ông bà cũng vừa đến vạch đích tuổi hưu, cứ nghĩ là
đã “hưu” thì đám con bắt đầu đẻ cháu. Những đứa nhỏ ra đời, thay nhau lớn lên
trên lưng ông bà già đang ngày ngày còng xuống thấp. Nên những đợt gác lại thời
thề nguyện lúc từ giã quê hương. Rằng cuối đời sẽ cất ngôi từ đường đơn sơ, thả
cá trồng rau vui thú điền viên trên miền quê nơi mình chôn nhau cắt rốn. Bây giờ
mơ ước đó ngày một xa tầm tay mà quỹ thời gian thì như chiếc đồng hồ cát mỗi
lúc mỗi vơi dần.
Ba và mẹ không
ai nói với ai, nhưng cả hai đều ấp ôm một nỗi niềm về một nẻo quê, cách phố chỉ
ba trăm cây số mà tận sáu giờ ngồi xe đò đến tê chân, rêm mình. Đi về thăm quê
chưa hít đầy gió đồng thì phải lật đật trở lên thành phố. Bởi bầy con réo trong
điện thoại, ba ơi coi nhà cho con đi công tác, mẹ ơi chở cháu đi khám mũi giúp
con, tối nay con tăng ca. Ngẫm nghĩ ngày xưa mình cũng đi công tác tăng ca cực
khổ, đã từng nếm trải chật vật khó khăn ra sao rồi. Lẽ nào bây giờ dửng dưng
trước những đứa con đang tuổi lo toan, mà thời gian, sự nghiệp và đời sống đều
gắn chặt vào phố thị. Để rồi trong nỗi nơm nớp lo lắng từ lúc ra bến xe đến lúc
ngủ trên chiếc chõng sạp tre; làm những chuyến về thăm quê hương cố thổ, mồ mả
tổ tiên của ba mẹ thưa dần.
Để đến một hôm, Ủy
ban phường đến chúc thọ ba mẹ lần đầu tiên. Mấy đứa con mới chưng hửng ra, ba mẹ
mình đã bảy mươi tuổi rồi đó sao? Đám con sắp bước qua tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”
mà lại giật mình: Ở tuổi này, người ta đã nắm chắc chiếc vé trong tay, chờ ngày
bay không xa lắm. Nhưng mẹ yêu đời nói rằng, ba mẹ cầm chiếc vé, nhưng đó là vé
về quê nuôi cá trồng rau. Chữ “quê” mẹ nói nghe ngọt ngào gần xịt trong tim, mà
sao đứa con lại thấy lạ xa và mặn đắng!
Đám con hứa,
chúng sẽ tìm cách san sẻ công việc lại, để ba mẹ về quê sống an dưỡng trong
không khí thoải mái trong lành: “Ba mẹ cứ về quê, tụi con lo. Tiền nong đối với
tụi con không quan trọng!”. Tuy không biết điều gì mới thực sự quan trọng đối với
đám con? Nhưng ông bà bỗng mừng vui như con nít sắp được đi chơi, như thấy nỗi
lo mấy mươi năm giờ đã nở hoa viên mãn.
Chuyến về được
trù tính sắp xong xuôi thì mười tháng sau ngày lên “thọ”, ba chóng mặt té xe
khi đang trên đường đi đến trường rước cháu. Ba bị tai biến nửa nhớ nửa quên,
và chắc ông cũng đã quên luôn một miền quê xa xôi, nên không đòi về nữa. Một
sáng tinh mơ, đứa con thấy ba lết từ giường ra góc sân bóng nắng không tới hai
mét vuông của chung cư tháp phố. Ba săm soi từng nụ nấm vươn lên từ mớ rơm đồng
ủ gốc cây; từng hạt sương đêm đọng trên lá của đám ngò đám ớt mẹ trồng. Ở đó có
một con dế lửa, không biết từ đâu đêm qua bay đến ụ rơm đào tổ, nó gáy lên bản
nhạc đồng quê làm ông già thao thức, hạnh phúc mỉm cười. Nụ cười méo xẹo vì bệnh
tật mà sao sáng ấm như mặt trời chiều trên những triền đê lộng lẫy khói đốt đồng.
Hình như, hồn cốt
miền quê vẫn chưa rời bỏ ba mẹ bao giờ. Và chỉ cần vun một góc vườn nhỏ ở
sân chung cư, thì con dế lửa tuổi thơ ở miệt Bàu Sen, Rạch Rập cũng bay xuyên
ngược thời gian, không gian để đến gáy lên một hơi dài đồng vọng hồn quê!
L.Q.T