Có thể nói nhà văn Tùng Điển thuộc tạng người kín tiếng vào
hạng nhất nhì trong làng văn. Rất ít khi thấy ông đăng đàn hay tranh luận về
văn chương một cách quyết liệt, cốt chỉ để giành phần thắng về phía mình. Có
chăng, nếu tranh luận, đăng đàn về một vấn đề gì đấy của văn chương cũng chỉ
đặng làm cho chân lý được sáng tỏ. Đấy chính là cách ứng xử thường thấy của kẻ
sĩ Bắc Hà.
Nhà Lý luận - Phê bình Văn học Đỗ Ngọc Yên
Nhà văn Tùng Điển (phải) trao kỷ niệm chương Vì sự nghiệp VHNT của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam tại Đại hội Hội VHNT Đồng Nai lần thứ VI (tháng 3/2019)
1. Nhà văn Tùng Điển có tên thật là Trần Quang Điển. Ông
sinh ngày 01-01-1947, ở thôn Tự Khoát, xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoại
thành Hà Nội. Ông là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam từ năm 1978, Hội viên Hội
Nhà văn Hà Nội. Hiện tại ông sống và làm việc tại Hà Nội.
Nhà văn Tùng Điển từng tốt nghiệp Đại học Xây dựng, ngành
toán. Sau khi tốt nghiệp, ông làm nghề giảng dạy, đến năm 1972 Tùng Điển tham
gia quân ngũ.
Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976 ông chuyển ngành làm
cán bộ biên tập sách tại Nhà xuất bản Thanh niên, sau đấy ông chuyển sang làm
Phó Tổng biên tập Tạp chí Tác phẩm mới (nay là Tạp chí Nhà văn và Tác phẩm) của
Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn Tùng Điển là Chủ tịch Quỹ Hỗ trợ sáng tạo Văn học
- Nghệ thuật Việt Nam; nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban toàn quốc Liên
hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam.
Từ thuở nhỏ, cậu bé Trần Quang Điển đã ham đọc và viết truyện.
Mới học cấp II, Trần Quang Điển đã dám viết truyện “Đời góa” dày 300 trang nói
về cuộc đời của mẹ mình. Năm 1965, cậu học sinh Trần Quang Điển được tặng giải
Ba trong cuộc thi viết của Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội với truyện ngắn Niềm
vui sáng tạo, trước khi Hội Văn học - Nghệ thuật Hà Nội được thành lập.
Trong sự nghiệp cầm bút của mình, nhà văn Tùng Điển đã xuất
bản một số tác phẩm như: “Những ô cửa mầu nâu” (tập truyện ngắn, Nxb Lao động,
1976); “Mạch ngầm” (tiểu thuyết, Nxb Thanh niên, 1977); “Những đứa con thành
phố” (tiểu thuyết, Nxb Hà Nội, 1979); “Kỷ niệm phố bãi” (truyện ngắn, Nxb Tác
phẩm mới, 1981); “Khoảng trống” (tiếu thuyết, Nxb Thanh niên, 1983); “Bức ký
họa” (truyện ngắn, Nxb Lao động, 1985); “Ngọn đèn như quả hồng chín” (truyện
dài thiếu nhi, Nxb Hà Nội, 1987).
Ông cũng đã từng nhận được nhiều giải thưởng cao quý như:
Giải thưởng Văn học công nhân của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho tập
truyện ngắn “Những ô cửa màu nâu” (1976); Giải A, Hội Văn học - Nghệ thuật Hà
Nội (Hội VHNTHN) cho tập tiểu thuyết Mạch ngầm (1976); Giải thưởng 5 năm một
lần của Hội VHNTHN cuốn Những ô cửa màu nâu (1980); Giải C, Hội VHNTHN cho tiểu
thuyết Khoảng trống (1980),... Nhà văn Tùng Điển được trao tặng Giải thưởng Nhà
nước về Văn học - Nghệ thuật, đợt IV, năm 2016 cho Tập truyện ngắn “Những ô cửa
màu nâu”.
2. Sau 31 năm im hơi lặng tiếng trên văn đàn, tính từ tác
phẩm “Ngọn đèn như quả hồng chín”, truyện dài viết cho thiếu nhi do Nxb Hà Nội
ấn hành vào 1987, đến năm 2018, nhà văn Tùng Điển mới “tái xuất” với tiểu
thuyết Người cũ do Nxb Quân đội Nhân dân ấn hành. Điều ấy làm cho không chỉ
riêng tôi mà còn có nhiều người nghĩ rằng có thể ông nhà văn thất thập này đã
gác bút thật rồi. Tất nhiên, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan khác nhau,
khiến ông tạm giải lao một quãng thời gian không phải là ngắn, ngót gần 1/3 thế
kỷ như vậy. Cũng có thể, trước đây có nhiều bài viết về con người nhà văn Tùng
Điển và tác phẩm của ông, nhưng khi ấy, ở nước ta còn chưa có internet, nên
việc lưu trữ tài liệu chủ yếu là bằng phương pháp thủ công qua các văn bản in
trên giấy.
Nói như vậy để thấy rằng các tài liệu, sách báo, tác phẩm
văn chương ở nước ta trước năm 1995 ít được phổ biến rộng rãi và lưu trữ trong
môi trường không gian mạng như hiện nay, nên việc truyền bá chúng là vô cùng
khó khăn và phức tạp. Vậy mà phần lớn các tác phẩm văn chương của nhà văn Tùng
Điển xuất bản cách trước thời gian 1995 chừng khoảng 7- 8 năm nên nếu như không
đến tay bạn đọc nhanh và rộng khắp cả nước như hiện nay cũng là điều dễ hiểu.
Nhưng theo thiển nghĩ cá nhân, dù ít hay nhiều, vẫn còn có
một nguyên nhân ẩn tàng trong tâm thức nhà văn Tùng Điển, mà có thể ông chưa
tiện nói ra. Đấy chính lòng tự trọng của một kẻ sĩ Bắc Hà, khi nghiệp văn đã
thấm đẫm trong người như ông. Một khi chưa có (hoặc hết) hứng thú, có thể ông
đã tự quyết định tạm ngưng viết một thời gian để tiếp tục tích lũy thêm tư
liệu, trau dồi kinh nghiệm và tìm kiếm sự hứng thú trở lại trước khi cầm bút.
Hơn bất cứ lĩnh vực nào, đối với tác phẩm văn chương khi mà người sản sinh ra
nó không có hứng thú viết thì lấy đâu ra cảm hứng để có thể truyền tới cho độc
giả, nếu cứ cố tình viết, cùng lắm cũng chỉ có thể cho ra đời những tác phẩm ái
văn chương, vô hồn mà thôi. Chính vì điều ấy mà tôi đánh giá cao sự tôn trọng
chính mình và cũng chính là tôn trọng người đọc, những người yêu thích văn
chương đích thực của nhà văn Tùng Điển.
Đối với các tập sách trước của nhà văn tôi chưa được đọc hết
vì quá lâu rồi, nên xin phép không bàn đến. Trong bài viết này, tôi chỉ quan
tâm đến tiểu thuyết gần đây nhất của ông, đấy là cuốn “Người cũ”. Có lẽ là nhà
văn quá khiêm nhường nên đã đặt cho tác phẩm của mình một cái tên như vậy. Về
nghĩa đen là hoàn toán xác tín, không còn gì phải bàn luận nữa. Nhưng, vừa với
tư cách là một người thích đọc văn chương từ hàng chục năm nay, vừa với tư cách
một người làm lý luận - phê bình văn học chuyên nghiệp, tôi thấy những câu
chuyện mà nhà văn kể lại trong tác phẩm của ông không hề cũ chút nào. Nếu có,
đấy chỉ là mốc giới thời gian, một đại lượng bất động, không bao giờ biến đổi
được. Còn lại con người, sự việc xảy ra từ những năm nửa đầu thế kỷ XX cho đến
hiện tại, đã được tác giả đem hết tâm, trí lực đặng thổi hồn vào, làm cho chúng
sống động và hấp dẫn hơn, cứ như là chuyện vừa mới xảy ra cách đây chưa lâu.
3. Cuốn tiểu thuyết được cấu trúc với 5 phần gồm: Một - “Sân
51”, Hai - “Những người chân đất”, Ba - “Hai người lính Tây”, Bốn - “Người
thiên cổ”, Năm - “Tìm về”. Thoạt nhìn qua tiêu đề của các chương, chắc không ít
người thấy dường như chúng chẳng hề ăn nhập gì với nhau. Thế nhưng, nếu đọc kỹ
thì hoàn toàn ngược lại. Đây là một cấu trúc mở, nhưng khá hoàn chỉnh, chặt chẽ
và hợp lý. Bởi lẽ trong toàn bộ cuốn sách chỉ nói về chuyện đã qua, thì quá khứ
mà nhà văn Tùng Điển đã gọi chúng bằng một cái tên nôm, dễ hiểu, đấy là “Người
cũ”. Ngay ở phần Một - Sân 51, những tưởng nhà văn nói về trụ sở của Ủy ban toàn
quốc Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam hôm nay. Nhưng xem ra đấy
chỉ là cái cớ về không gian để nhà văn tạo dựng câu chuyện, gửi gắm tâm sự cũng
như cõi lòng mình với một thái độ biết ơn vị Chủ tịch Hội tiền nhiệm là cố họa
sĩ Vũ Giáng Hương, con gái nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng Vũ Ngọc Phan và nhà
thơ Hằng Phương.
Qua những trang viết của nhà văn Tùng Điển, chúng ta dễ dàng
hình dung ra một họa sĩ Vũ Giáng Hương khi đang tại vị. Bà không chỉ là một
người lãnh đạo cao nhất của giới văn nghệ sĩ cả nước, luôn hết lòng, tận tâm,
tận lực chăm lo cho sự nghiệp phát triển văn học nghệ thuật nước nhà bằng một
thái độ ân cần rất mực tử tế đối với các văn nghệ sĩ cả nước trong tư cách là
bà chị cả của giới, bằng những ứng xử đầy văn hóa và nhân văn của con nhà dòng
dõi trâm anh, mà dường như chỉ có ở những người phụ nữ Hà thành gốc trước đây
mới có được.
Bên cạnh đấy, họa sĩ Vũ Giáng Hương còn là một người rất
quan tâm tới văn hóa tâm linh, như là một phần tất yếu, không thể thiếu trong
đời sống tinh thần của bà. Minh chứng là, khi cánh thợ đào gốc cây đa cổ thụ
trong sân 51 (nhà số 51, phố Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội,
hiện là trụ sở của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt
Nam) để thay đất mới cho cây thì phát hiện dưới lớp đất sâu chừng một mét hai
cụ rùa vàng, trên thân có khắc những dòng chữ Hán cổ. Nhà văn Tùng Điển khi ấy
là Chánh Văn phòng cơ quan, liền mang hai cụ rùa vào nhà lau chùi, tắm rửa sạch
sẽ rồi lập bàn thờ nghiêm trang cho các cụ. Sau đấy mới báo cho thủ trưởng cơ
quan biết. Bà Vũ Giang Hương biết tin đã đến ngắm nghía, chiêm ngưỡng một cách
say mê trước khi thắp hương, khấn vái hai cụ, mong hai cụ phù hộ độ trì cho anh
em văn nghệ sĩ và nền văn nghệ Việt Nam ngày càng phát triển tốt đẹp hơn. Tiếp
đến, bà giao cho Chánh văn phòng những công việc cần làm để bảo trọng hai cụ ở
mức độ cao nhất có thể.
4. Theo thiển nghĩ, sau khi đọc xong cuốn sách, tôi thấy
dường nhà văn dành nhiều tâm huyết cho việc tái hiện lại hiện thực lịch sử của
vùng quê ngoại thành Hà Nội, vào đầu những năm 50 của thế kỷ trước cho đến thời
kỳ sau này ở phần 4, “Người thiên cổ”. Ở phần 1- 3 và phần 5 dường như là những
câu chuyện khác, nhưng chúng lại có ý nghĩa bổ sung, tô đậm thêm một số tính
cách nào đó hay chủ đề làm tăng điểm nhấn cần thiết ngõ hầu nổi rõ tính khuynh
hướng tư tưởng chủ đạo của cuốn sách.
Riêng phần 4, theo tôi nó giống như một truyện vừa hoàn hảo,
thậm chí là một tiểu thuyết mini, thay vì chỉ là một chương của cuốn sách. Bởi
lẽ ở phần này kết cấu câu chuyện chủ yếu là xoay quanh nhà cụ Chánh, người đại
diện cho chính quyền phong kiến địa phương, trước và sau cơn ba đào của lịch sử
dân tộc, ngày chiến thắng Điện Biên, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, 1954. Cái
chết của cụ Chánh và sự ra đi của cô con gái Phan Thạch Ngưu, ngay cả sự hy
sinh của Bí thư Chi bộ Trần Văn Huề, việc thằng Nhỡ lại lang thang ra xó chợ
Dáy, Văn Điển cải trang làm người quét chợ, rồi số phận của bọn lính tây, đứng
đầu là thằng Tây lùn phụ trách các bốt ở khu vực phía Nam ngoại thành Hà Nội,
tất cả dường như chỉ diễn ra xung vụ càn quét của quân giặc vào vùng ngoại ô
thành phố này, là sự phản ánh kết cục tất yếu của dòng chảy lịch sử lúc bấy
giờ.
Với khoảng 100 trang in, từ trang 82 đến trang 182, chiếm
gần 60% dung lượng tác phẩm, tất cả những vấn đề về lịch sử - xã hội của vùng
ngoại ô thành phố trước và sau khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng khỏi ách
thống trị của thực dân Pháp vào năm 1954 được hiện lên thật sự rõ nét. Đấy là
cảnh tượng làng quê xưa đầy thơ mộng do thiên nhiên ban tặng và chưa có sự phá
hoại của công nghệ hiện đại, mặc dù thời ấy xem ra có vẻ đơn sơ, tiêu điều xơ
xác, sản xuất nông nghiệp bị ngưng trệ, không mấy phát triển nhưng lại rất đáng
yêu. “Những cánh đồng như vựa thóc của người Hà Nội xưa mơn mởn xanh, giờ trơ
đất hoang hóa, để ý lắm mới thấy lác đác trên cánh đồng, những người nông dân
bất chấp hiểm nguy có thể đến lúc nào từ các lỗ châu mai, mong bòn hạt lúa, củ
khoai nuôi sống gia đình”. (tr.91).
Hay là cảnh đôi trai gái yêu nhau, Huề và Ngưu đã được tác
giả miêu tả hết sức thi vị: “Khi trai làng không dám mon men gần cô thì chú tôi
lại có điều kiện ở bên ngôi sao Ngưu ấy. Hai người học cùng lớp cùng trường.
Trường dưới huyện Đông Phù, cứ đi theo đường cái quan, men sông Tô Lịch chừng
một thôi chạy gằn là đến. Nhưng đôi trai gái này không chạy, có xe đạp nô giỡn,
đuổi bắt nhau. Mỗi người một xe Pơ-giô. Khi tiếng cười và tà áo trắng của cô,
vừa như cánh bướm dập dờn trong sương sớm ven sông Tô Lịch, thì chú tôi cũng đã
nhổm người trên yên xe, bứt khỏi làng ra đường cái quan”.
“Thế là họ đuổi nhau lúc nhanh lúc chậm, lúc cô Ngưu dướn
người về phía trước thì chú tôi gò lưng tôm mà đạp, mà hổn hển thở; được đoạn
dài cô chùng chân, buông thả người, lái một tay, ngoái lại, tay vẫy về phía sau
như thách thức, thì chú tôi cũng như dềnh dàng không muốn đuổi. Tới đoạn đường
một bên sông, một bên là cánh đồng thì họ đã đi bên nhau, xuống dắt xe, thật để
ý mới nghe thấy hơi thở và tiếng líp xe tanh tách như vẫn còn muốn đôi trai gái
đùa giỡn. Có những buổi đi học sớm, đường cái quan, ẩn hiện bên các lũy tre ven
đường, một vài tốp người gồng gánh đi chợ, có người biết họ, kháo chuyện: - Cậu
Huề con bác Chưởng với cô Ngưu con ông Chánh phải hơi bén tiếng nhau, đố mà có
rời nhau được” (tr.85)
Chính ở nơi đây quan hệ giữa chính quyền thực dân xâm lược
và quan lại phong kiến Việt Nam, thông qua hai nhân vật chính là ông Chánh và
thằng Tây lùn; quan hệ giữa bọn thực dân xâm lược, đại diện là Tây lùn với
chính quyền cách mạng (Việt Minh) do Trần Văn Huề làm Bí thư chi bộ; quan hệ
giữ chính quyền phong kiến địa phương với người dân thông qua việc ông Chánh đã
cưu mang giúp đỡ nhiều gia đình nghèo tại địa phương và gia đình ông Nhẫn, chạy
loạn từ Mường Bi, Hòa Bình về đây cư ngụ và gia đình ông Chưởng bạ đã có một
người con ưu tú, làm Bí thư chi bộ Đảng của thôn Tự Khoát là Trần Văn Huề; quan
hệ giữa chủ nhà là cụ Chánh và cô Ngưu với người ở là thằng Nhỡ; đặc biệt là
mối tình tuyệt đẹp tuổi học trò giữa Huề và Ngưu,... Tất cả đều được nhà văn
miêu tả hết sức cụ thể, chân thực, nhưng cũng đầy sự tinh tế và hết sức nhân
văn.
Có thể nói, mọi ý đồ tư tưởng của nhà văn được gói rất kín
vào hình tượng nhân vật, khiến người đọc chỉ còn cảm thấy đấy là ngôn ngữ của
nhân vật, những chuyện thực từng xảy ra và do những người trong cuộc tự nói ra,
chứ không phải của người viết. Các cụ ta xưa dạy rằng “sông kỵ khúc, văn kỵ
trực” quả là chẳng có sai. Nếu sông gấp khúc nhiều đoạn cua vòng, nước sẽ chảy
chậm, nhiều rác thải dễ tù đọng và trở thành sông chết. Còn văn mà cứ nói ra
tồng tộc tất cả những gì mình muốn nói thì sẽ gây cho người đọc cảm giác đơn
điệu, tẻ nhạt và nhàm chán, như là áp đặt người đọc lúc nào cũng phải tuân theo
suy nghĩ và ý đồ của người viết, mất hứng.
5. Tôi đặc biệt thú vị với những trang đặc tả tính cách nhân
vật có chiều sâu, cũng như màn đối thoại giữa cô Ngưu và người kể chuyện, xưng
tôi trong Người cũ. Từ thằng Nhỡ, đến cụ Chánh, cô Ngưu và thằng Tây lùn, mỗi
người một ngoại hình, dáng vẻ cũng như tính cách khác nhau rất phù hợp với vai
diễn cuộc đời mà nhân vật ấy đang nắm giữ.
Bằng kinh nghiệm quan sát tinh tế các hạng người trong xã
hội trước đây còn đọng lại trong ký ức tuổi thơ của cậu học trò Trần Quang
Điển, theo đó thì loại người thường có hai nét mặt: “Loại người ở thường có hai
nét mặt, một là bì bì trì độn; một là mặt mỏng, môi mỏng, mắt đảo như ngô rang.
Thằng Nhỡ thuộc loại thứ hai, thêm hai cái chân, hai cái tay lúc nào cũng nhoăn
nhoắt mà độ chính xác thì không sai lấy một ngón tay, đấy là chưa kể đến hai
cái tai vểnh của nó, cứ như tai thỏ hết quay trái; quay phải, đố mà sót một
tiếng động nào”. (tr. 94- 95).
Quả thực nhà văn Tùng Điển đã quan sát một cách ký lưỡng,
tinh tế với một cái nhìn sắc lẹm về loại người này, không chỉ về mặt dáng vẻ,
hình thể, mà quan trọng hơn là về tính cách của một kẻ lang bạt kỳ hồ nơi đầu
đường, xó chợ được cụ Chánh mang về nuôi. Nhỡ có đầy đủ các phẩm chất của một
con người từ trên trời rơi xuống vì hắn nào đâu có biết bố mẹ mình là ai, quê
quán ở đâu, nhưng lại khá siêng năng, cần cù, nhanh nhẹ, láu táu, dẻo mỏ, hay
hớt lẻo, thích cầm đèn chạy trước ô tô, tận tụy với công việc khi thấy có lợi,
kể cả làm chỉ điểm cho địch, miễn có nhiều tiền. Đây là cái cách thằng Nhỡ
chuẩn bị một bữa thịnh soạn tiếp thằng Tây lùn ở nhà cụ Chánh: “Thằng Nhỡ loáng
mất dạng, đã thấy gà quang quác chạy ngoài vườn; rồi, trời rét thế, nó đã trần
trùng trục, vận chiếc quần dài nâu vê hai bên hông cho gấu quần cao quá gối,
tay thoăn thoắt buộc gọng tre, chống một đầu vào chân tường, đu người lên đầu
kia căng lưới mắc dập… Chỉ một cú bổ nhào, một hơi lặn, nó đã thành thạo dồn
con cá trắm đen to bằng đùi vế, cuốn chặt vào rường lưới, khiến con cá nằm bất
động trên mặt nước. Mấy thằng lính nhìn thằng Nhỡ một cách thán phục”. (tr.106-
107).
Có ai ngờ chính lòng thương người của cụ Chánh đã khiến cụ
quá tin hay là không thèm chấp Nhỡ, một thằng khố rách áo ôm mà cụ đã mang từ
xó chợ về nuôi, trở thành người nuôi ong tay áo. Bởi lẽ thằng Tây lùn cáo già,
người Pháp lai Việt vô cùng gian xảo, quỷ quyệt vừa tỏ ra thân thiện với cụ
Chánh, vừa ra sức đút tiền cho thằng Nhỡ, vì theo hắn không người nào có thể am
hiểu nhà cụ Chánh bằng thằng Nhỡ, với mục đích biến nó thằng một thằng tay sai
đắc lực cho bọn xâm lược Pháp đang tìm mọi cách để triệt hạ lực lượng Việt Minh
của ta ở khu vực ngoại ô này.
“Mày phải tìm hiểu cho kỹ ai là người làng, ai là người
thiên hạ. Kẻ nào làm gì, nói gì. Quan trên khen mày làm việc tốt lắm, không chỉ
cho mày nhiều tiền mà còn đưa mày đi huấn luyện... Hôm ấy thằng Nhỡ được mẻ
tiền lớn, thêm câu dặn chắc như đinh đóng cột: mày không được rời mắt khỏi hai
đứa, thấy cô cậu có vẻ như sắp trai trên gái dưới là phải xông vào ngay”...
(tr. 120- 121).
Sự bắng nhắng, hóng hớt, thói mách lẻo của thằng Nhỡ những
tưởng đấy chỉ là tính nết trẻ con vô hại của cu cậu, nhưng dưới mắt thằng Tây
lùn thì đấy lại là cơ hội tốt để nó thấu hiểu tận gốc rễ từng cử chỉ sinh hoạt,
đời sống và quan hệ của chính quyền phong kiến địa phương với người dân và đặc
biệt là chính quyền Việt Minh. Tây lùn áp dụng phương thức nắm quyền cai trị
khu vực này bằng cách vừa đấm vừa xoa, mang thức ăn, đồ hộp, bánh kẹo từ Pháp
sang, đem thuốc phiện từ Myanma đến mời cụ Chánh, cho thằng Nhỡ ngày càng nhiều
tiền để nó cung cấp tin tức về những chuyện từng xảy ra ở địa phương và ngay
trong nhà cụ Chánh. Ngay cả việc xài món thuốc phiện hắn tỏ ra là người từng
trải nên luôn tìm cách nhập gia tùy tục với cụ Chánh. “Đúng là bàn tay của
thằng chuyên hút xách, ngón to như dùi đục, nổi gân mà Tây lùn vê thuốc thật
khéo, thật nhanh, lúc hơ sái lên ngọn đèn, lúc xoay vào lọ thuốc phiện cứ mềm
và thoăn thoắt như trẻ con chơi trò rải gianh vậy”. (tr.101)
Bởi theo Tây lùn, mọi việc xảy ra ở vùng này đều không qua
được mắt cụ Chánh, nên bằng mọi cách nó cần phải nắm thật chắc lấy cụ. Nàng
tiên nâu là thứ rất hấp dẫn đối với Tây lùn, dù vậy hắn vẫn không quên việc vừa
thưởng thức thuốc phiện, vừa khai thác tin tức từ cụ Chánh về tình hình an
ninh, trật tự ở cái làng mà hắn được trên giao phụ trách:
“Ông Chánh, thằng Huề là cầm đầu, ở cái xã Ngũ Hiệp này còn
nhiều đồng chí của nó, biết đâu đã có thằng đi rải truyền đơn chống người Tây,
tụ tập đông người hô hào ở chợ kêu gọi thành lập chính quyền, tuyên truyền tự
do, dân chủ”.
“Thằng Nhỡ tròn mắt lắng nghe, đôi tai vểnh mỏng như động
đậy được, nó như thay ông Chánh, đồng lõa:- Dạ, đúng như quan trên nói đấy ạ,
đêm sáng giăng chúng còn tụ tập bọn trẻ con dạy hát, dạy múa nữa ạ. Mà sao cái
bọn trẻ con hễ cứ nói đến hát, đến múa là lại inh lên rồi”.
“Tây lùn đang nhét thuốc vào nõ, nghe vậy, dương mắt nhìn
thằng Nhỡ cóm róm đứng gần mép sập”.
“Ông xòe diêm, dựng ngược cho lửa hết lưu huỳnh mới nhẹ
nhàng chấm vào bấc. Ngọn đèn dầu lạc tròn vo, bong bong. Mũi kim tiêm chấm sát
vê nhẹ trên lửa khi cao khi thấp đã bện vào đầu kim, ro ro sôi, cái mùi thơm
không cưỡng nổi của dân nghiện bắt đầu tỏa ra trên mặt chiếu. Cũng là lúc thằng
Tây lùn dương đôi mắt xanh như mắt mèo nhìn ông Chánh, buông từng tiếng: - Ông
có biết dạo này Việt Minh nổi lên như giặc cỏ không? Chúng giết lính người Tây
người ta ngang nhiên giữa ban ngày. Chúng cắm cờ đỏ sao vàng ngay trên các ngọn
cây sát đồn bốt, như muốn nhổ hết đồn bốt đi rồi. Nói để ông Chánh biết, một số
vùng Việt Minh giết cả lý trưởng, chánh tổng muốn lập chính quyền cộng sản đấy.
Ông nghĩ sao?”
“Bị hỏi bất ngờ, ông Chánh dừng vê thuốc, điềm tĩnh nhìn Tây
lùn: - Chúng tôi không biết gì, làng này, xã này vẫn yên bình”.
“Tây lùn nhổm dậy, gõ gót giầy trên sập đánh cộp: - Yên bình
gì. Cái làng Tự Khoát, xã Ngũ Hiệp do ông trông nom, ngày thì cứ tưởng không có
gì, nhưng đêm là Việt Minh nhộn nhịp, nhũng nhiễu. Ông có biết thằng Trần Văn
Huề con lão Chưởng bạ, là Bí thư chi bộ Cộng sản giờ nó đang làm gì, trốn ở đâu
không?”
“Ông Chánh sững người, giữa mùa đông mà mồ hôi trán ứa ra
lấm tấm”. (tr.100- 103).
Đặc biệt, tôi rất thích những trang, đoạn viết về cô Phan
Thạch Ngưu, con gái cụ Chánh vừa tinh tế vừa có chiều sâu tính cách của con gái
nhà quan. Từ hình hài đến tướng mạo và cách ứng xử rất nữ tính, đúng đẳng cấp,
nhưng cũng rất tình người, thấm đẫm tinh thần nhân văn của người Việt:
“Theo Nhị Thập bát tú, cô đã sinh vào ngày Ngưu Kim Ngưu, tướng
tinh con trâu. Sao Ngưu là một trong Thất Sát tinh, sinh con vào ngày ấy khó
nuôi, nên phải lấy tên sao đặt cho cô; không những vậy mà còn phải làm việc Âm
Đức suốt tháng sinh, hoặc kéo dài thêm nữa thì mới mong nuôi con khôn lớn,
thành người được… Có lẽ sự nghiệt ngã của số phận, của ngôi sao Ngưu thất sát
tinh ấy, đã mờ ám, lọc lõi dụ bước chân thiếu nữ đặt vào miền cỏ lạ, ẩm ướt hơi
sương để rồi cô cứ tự cất lên tiếng cười trong trẻo, tự giang tay mà đón nhận
ánh nắng rực rỡ, tự hóa thân thành bướm lúc đậu, lúc tha thẩn, lúc rối rít vỗ
cánh bay... đùa giỡn với những ngón tay tinh quái đang định nhón bắt mình.
Người có những ngón tay tinh quái ấy, chính lại là chú ruột tôi. Khi trai làng
không dám mon men gần cô thì chú tôi lại có điều kiện ở bên ngôi sao Ngưu ấy
(…) Có những buổi đi học sớm, đường cái quan, ẩn hiện bên các lũy tre ven
đường, một vài tốp người gồng gánh đi chợ, có người biết họ, kháo chuyện: - Cậu
Huề con bác Chưởng với cô Ngưu con ông Chánh phải hơi bén tiếng nhau, đố mà có
rời nhau được”. (tr.84- 85).
Dù biết rằng mọi chuyện xảy ra với gia đình cụ Chánh đều do
cái thằng Nhỡ ăn cháo đái bát ấy mà ra. Sau cái đận cô Ngưu bị du kích bắt giải
đi vì nghi là chỉ điểm, nên quân Pháp mới mở trận càn xuống vùng Ngũ Hiệp bắn
chết Bí thư Chi bộ Trần Văn Huề, con trai cụ Chưởng bạ, ngay trên sân nhà cụ
Chánh. “Từ hôm đưa chú Huề ra đồng, ông chỉ ngồi vậy, có lần tỉnh dậy giữa đêm,
tôi thấy bóng ông vẫn lặng im trên vách. Tôi có cảm giác ông tôi hình như biết
ông Chánh tổng đang đứng ngoài ngã ba ngõ, và cả ông Chánh tổng đứng ngoài kia
cũng biết ông tôi đang ngồi trên tràng kỷ. Cả hai người biết có nhau nhưng đều
không lên tiếng. Thật là một sự im lặng chưa thấy bao giờ. Chỉ sau này khi ông
Chánh tổng và ông tôi đã là người thiên cổ và tôi đã lớn lên, có gia đình mới
nhận biết được cuộc đối thoại câm lặng của hai ông già ngày ấy. Một người con
mới bị giặc Pháp bắn chết, một người con nghi là chỉ điểm bị Việt Minh bắt đem
đi, cũng coi như là không còn nữa; nhưng trong sâu thẳm hai người cha ấy không nghĩ
nhau là thù địch, mà chỉ có nỗi đắng chát của hai người cha mất con. Những lần
cô Ngưu sang nhà, ríu rít với chú Huề, ông bà tôi nhìn cô thật trìu mến, nhất
là bà tôi ánh mắt cứ sáng lên, biết cười như nhìn con gái vậy. Đời sống có biến
cố thật khốc liệt và thật xót xa với người cha đứng chống ba - toong ở ngã ba
ngõ kia. Cái ngôi sao Ngưu, một trong thất sát tinh, chả lẽ lại đúng, kéo theo
điềm gở đến mức đem cái chết của chú Huề tôi người bạn của con gái ông, một du
kích, một Bí thư Chi bộ Đảng xã bị giặc Pháp bắn chết ngay trên sân nhà ông,
cắt ngang tuổi trẻ của cô Ngưu, thấy sống đấy mà như đã chết. Cho dù hai ông
già này có giáp mặt nhau, thì cũng chỉ biết ôm mặt mà khóc. Nhưng ngày ấy, một
người ngoài ngõ, một ở trong nhà hai người cha này cũng đã khóc nhưng không
thành tiếng và nước mắt thì cũng đã chảy ngược vào trong tụ lại, làm thành khối
u uất để cả hai sớm phải từ giã cuộc sống vốn yên bình của mình”. (tr.137-
139).
Vài hôm sau, cụ Chánh chống ba toong ra đầu làng đến cầu
Gạch thì bị ngã xuống đấy cùng con vện mà chết tức tưởi, thằng Nhỡ cũng ba chân
bốn cẳng cao chạy xa bay khỏi nhà cụ Chánh.
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, miền Bắc
hoàn toàn được giải phóng, ít lâu sau cô Ngưu được trả tự do. Lúc này cô tiểu
thư năm nào đã trở thành một bà già tiều tụy. Chỉ riêng những ngón tay ngọc ngà
quý phái của cô vẫn còn đó làm minh chứng cho thằng Nhỡ nhận ra. Mặc dù, ngày
trở lại làng Tự Khoát trong căn nhà xưa, tiêu điều và xơ xác vì lâu rồi không
có người ở, chỉ thi thoảng có cô Nụ, con ông Nhẫn mang mâm cơm lên quét dọn nhà
và hương khói cho cụ Chánh, như là một cách trả ơn ngày trước cụ đã cưu mang cả
nhà cô từ Mường Bi đến đây cư ngụ, bà Ngưu muốn tìm bằng được thằng Nhỡ, vừa là
đứa ở, vừa là thằng chỉ điểm cho giặc gây bao nhiêu đau thương, tang tóc cho
không chỉ nhà cụ Chánh mà cả làng Tự Khoát này, nên bà cần phải trừ khử nó. Bà
Ngưu đã chuẩn bị mưu kế, cách thức để hành động:
“Còn thứ để triệt thằng Nhỡ, tôi nhớ đến truyện tôi đã đọc
hồi nhỏ. Tôi nhặt tóc từ một hàng cắt tóc về, lấy kéo tỉ mẩn cắt thật ngắn cho
vào rượu. Tóc nhỏ li ti uống vào người không chết ngay nhưng sẽ ho, lâu ngày ho
ra máu mà chết... Lần rót đầu này, tôi đã rút ngay chai rượu có pha tóc, tôi
rót đầy oặc, rượu tràn cả ra chõng. Cầm chén rượu lên đưa về phía thằng Nhỡ thì
tay tôi run bắn, tôi lật đổ chén rượu xuống đất, nhưng thằng Nhỡ như có chủ ý,
nhanh tay hơn, nó gần như giằng lấy chén rượu, ngửa cổ tợp gọn... Nó cố tình
uống chén rượu tôi rót ra, và biết rằng đấy là chén rượu tôi giết nó... Từ trong
lều bỗng bật lên tiếng khóc thảm thiết, tức tưởi. Vừa khóc vừa nấc lên, ối cô
chủ ơi, con có tội, con đáng chết, ối cô chủ ơi. Rồi lại tiếng réo lên thảm
thiết lẫn trong tiếng đập tay thình thịch dội vào mặt đất, ối ông ơi, con giết
ông rồi, con có tội, xin cho con được chết đi để xuống đấy hầu hạ ông, ối ông
ơi là ông ơi... Mỗi lần cúi, thằng Nhỡ lại áp mặt xuống, hai tay xòe to vỗ
xuống đất. Ối cô chủ ơi, con có tội, ối ông ơi, con giết ông rồi, xin cho con
được chết đi để xuống đấy hầu hạ ông, ối ông ơi là ông ơi... Thằng Nhỡ biết tôi
theo nó vào đây và nó thắp đèn, quỳ xuống chờ. Nó khóc, tự kể tội nhưng lòng
tôi lạnh tanh, thù hận, tôi phải cúi xuống mới bước được qua cửa lều. Hình như
biết tôi vào lều, nó im bặt, cúi gập người, phủ phục trên mặt đất, nhưng đầu nó
vẫn run lên vì nấc nghẹn. Nhỡ, tôi gọi giật, người nó càng mọp xuống, không dám
ngẩng lên, biết tao bỏ độc vào rượu, mày vẫn giằng lấy uống là sao. Thưa cô con
có tội, ối giời cao đất dày ơi, con có tội cô chủ ơi”...
“Dạ, cô chủ ơi, con nhiều bệnh tự biết cũng không còn được
lâu nữa, nhưng được chết bởi tay cô con thấy được bớt tội. Làm sao mày biết là
tao. Ngay tối qua con đã nhận ra cô chủ rồi, lúc cô với tay ra lấy cái chén,
ngón tay cô cứ như ngón tay Phật bà Quan âm con làm sao quên được, con còn thấy
cô muốn ra tay từ tối qua nhưng cô còn có ý thương con... Tôi lùi dần ra ngoài
cửa bảo nó, giờ sống hay chết là việc của mày, tao không còn nghĩ đến nữa. Biết
tôi đã ra khỏi cửa, thằng Nhỡ lết gối theo, nhìn lên, mặt đầm đìa nước mắt, cô
chủ ơi, cô hãy nói một câu tha tội cho con đi, thì có chết đi con cũng mới nhắm
được mắt. Tôi bỏ đi được vài bước nó lại quì lết theo ra ngoài cửa lều, rền rĩ,
cô chủ ơi, cô Ngưu ơi, cách đây mấy đêm, con có trốn về nghĩa địa làng thắp
hương cho ông, cho bà, cho cả con vện nằm ở dưới chân ông nữa, ối cô ơi, con
không bằng con vện, không dám đâm đầu xuống đầm bùn mà theo ông, không bằng con
chó. Nhìn nó rũ ra như tàu lá héo, lúc đó lòng tôi thật trống trải, và tôi cũng
không thể ngờ được rằng, sau cái buổi tối hôm ấy nó gọi tên tôi, mãi nhiều năm
tháng sau này không còn ai gọi đến tên tôi nữa. Tôi bảo thằng Nhỡ, thôi thì đời
tao cũng đã đến thế này rồi, tao tha tội cho mày. Tôi bỏ đi, không quay lại chợ
Dáy Văn Điển nữa. Nhưng cũng chỉ thời gian sau tôi nghe tin, thằng Nhỡ đã chết
trong cái lều cuối chợ, trước khi chết nó đã tự cuốn được người vào trong
chiếu, nằm chờ”. (tr. 175- 181).
Những tưởng, một người như bà Ngưu hoàn toàn có lý do chính
đáng để bắt thằng Nhỡ phải đền tội dưới tay bà. Nhưng không, cuối cùng nhìn
dáng bộ tàn tạ của hắn, bà đã: “Tôi bảo thằng Nhỡ, thôi thì đời tao cũng đã đến
thế này rồi, tao tha tội cho mày”. Thật là một cái kết vô cùng bất ngờ, khiến
nhiều người sẽ rất khó đoán định, nhưng mà có hậu, thám đẫm tinh thần nhân ái
của người Việt: “đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại”.
Với tôi, đây là cuốn tiểu thuyết đọc rất thú vị, và là sự
thành công của nhà văn Tùng Điển sau gần một phần ba thế kỷ trở lại với văn
đàn.
Đỗ Ngọc Yên